TRUNG TÂM
TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI BAHNAR JƠLƠNG
CỘI NGUỒN
– ĐẤT TỔ
***
NGƯỢC DÒNG
THỜI GIAN
LỜI NÓI ĐẦU
Nhân dịp kỷ
niệm 165 năm khởi đầu truyền giáo vùng Tây nguyên Kontum (1848 – 2013 )và Ông
Hmur, một người dân tộc đón lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy cách đây 150 năm –
là Hoa trái đầu tiên tại Trung Tâm này –, chúng tôi xin hoạ lại
khung cảnh lịch sử và những hướng lộ trình của các ngài băng rừng lội suối đến
Kon Kơxâm. Những thành quả cũng như khó khăn trong mục vụ, dựa vào một số tài
liệu của Cha Dourisboure ÂN trong tập Hồi Ký nguyên tác: “Les Sauvages
Bahnars”, Paris 1929; sách “Mở Đạo KONTUM” của Cha P. BAN và S. THIỆT, Nhà In
Qui Nhơn 1933; sách của NGUYÊN HƯƠNG, “Địa phận KONTUM” trong Nguyệt san Văn
Hoá, XII (1963), từ trang 205-214; cũng như kết hợp các lần đi thực tế những
ngày gần đây tại một số làng trên vùng cư dân này.
GPKONTUM
(21.10.2013) KONTUM
XIN KÍNH MỜI
Chúng tôi xin
trình bày một số đề mục sau đây:
I. Khai phá
vùng truyền giáo Tây Nguyên: vai trò Thầy Sáu Do
II. Đi khảo
sát tại Kon Kơxâm
III. Các
chi người Bahnar nói chung, người JƠLƠNG nói riêng
IV. Tiểu
sử: Những vị thừa sai đầu tiên và trực tiếp xây dựng “CƠ SỞ TRUYỀN GIÁO ĐỨC MẸ
GIẢI CỨU”
V. Các thời
kỳ khó khăn và trăn trở (1932-1975) – Thống kê
Kết: Hình
ảnh và hiện trạng hôm nay
I. KHAI PHÁ
MIỀN TRUYỀN GIÁO TÂY NGUYÊN
A. HOÀN CẢNH,
MỤC ĐÍCH, ĐỘNG LỰC CUỘC HÀNH TRÌNH
Đức cha STÊPHANÔ
CUENOT THỂ, Giám mục Tông toà Địa phận Đông Đàng Trong (năm 1924 đổi tên Quinhơn)
luôn nuôi hoài bảo tìm đường lên vùng Tây Nguyên truyền giáo cho anh em dân
tộc. Mặt khác, dưới triều đại Vua Thiệu Trị, cuộc bắt đạo tàn bạo đã thúc bách
vị tông đồ nhiệt thành cho tiến hành ngay việc tìm đường xuyên sơn đưa các vị
thừa sai rao giảng Tin Mừng cho anh em dân tộc, đồng thời tìm nơi an toàn cho
đoàn chiên đang bị sói dữ cắn xé có nơi tá túc an toàn hơn.
Vua Tự Đức lên
ngai ngày 10-11-1847. Trong giai đoạn đầu, ông ân xá cho mọi Kitô hữu đang bị
cầm tù được trở về cũ nhà làm ăn. Nhưng thực tế còn nhiều linh mục bị tra tấn
và chết trong tù.
Ngay năm Tự Đức
nguyên niên (1848), một chiếu chỉ ban hành hồi tháng 8. Sau khi nói lên những
xấu xa của tà đạo, như bỏ việc thờ kính tổ tiên, móc mắt người sắp chết để làm
bùa ngãi hoặc lòng người, chiếu chỉ nhấn mạnh đến việc thi hành nghiêm túc,
phải buộc đá vào cổ của Tây Dương Đạo Trưởng ném xuống biển, về phần thưởng cho
những kẻ bắt được chúng… Do đó, Đức Cha bằng mọi cách cho người tìm đường lên
Tây nguyên. Cuối cùng. Thầy SÁU DO, vị tông đồ nhiệt thành can đảm, có một lòng
phó thác vào bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, đã thành công hướng đạo cho
đoàn truyền giáo lên vùng cư dân Tây Nguyên, sau nhiều lần dò dẫm và thất bại.
B. NHỮNG LỘ
TRÌNH XUYÊN SƠN CỦA CÁC VỊ THỪA SAI
Không kể con đường
đi dò dẫm của thầy Sáu DO (vào năm 1848) từ An Sơn (An Khê ngày nay) rảo bước,
gánh gồng cơm nước cho ông chủ buôn bán vùng thượng đến Hadrung (Pleiku ngày
nay) hoặc từ An Sơn đến những buôn làng phía bắc gần đó… Lộ trình chính yếu của
đoàn truyền giáo xuất phát từ GÒ THỊ, nơi vị giám mục đang ẩn núp. Có nhiều lần
đi theo những lối đi, với đoàn người khác nhau và trong thời gian khác nhau.
Chúng tôi tóm tắt một số lần đi như sau:
1. Thầy Sáu Do
giả danh “con buôn” cùng với 4 chủng sinh làm người hầu
Sau khi ở giúp
việc cho ông Quyền, nhà buôn tại An Sơn, Thầy Sáu DO biết một số tiếng, một số
buôn làng quanh An Sơn cũng như vùng Hadrung (Pleiku), thầy từ giã vai “đầy tớ”
về trình bày mọi kết quả cho Đức Cha rõ để ngài định đoạt công việc tìm đường
dẫn lối lên vùng dân tộc Tây Nguyên.
Đức Cha cho thầy
nghỉ vài tháng và cho phép đem theo 4 chủng sinh để lên đường. Lần này thầy
cũng không dám giáp mặt quan xin giấy phép buôn bán vì thời kỳ cầm đạo gắt gao,
nên cả 5 thầy trò cũng gồng gánh làm “lái buôn chẳng đặng đừng”: đêm đi,
ngày lại chui vào bụi rậm, hang sâu, ẩn núp có lúc cũng chui lầm vào hang cọp.
Nhưng mọi sự tạm ổn được 5-6 ngày đường. Có lần sắp qua làng Plei Bông Mor, cả
năm phải nằm ngoài rãy gần bến cạn suối Ayun (nay thuộc thôn một) quan sát động
tỉnh hai làng Plei Bông Pim và Plei Bông Mor gần đó.
Anh em dân tộc
gọi Cha DO là “Bok LÀNH” vì tâm tính ngài hiền từ và tốt lành được thể hiện
trong công việc an sinh lo cho người dân tộc như người có LÒNG NHÂN. Lòng
nhân này ngài hấp thụ từ cha mẹ. Ở đây thân sinh của ngài mang danh là
NHƠN cũng không phải là vô lý.
2. Thành lập
những trạm dừng chân
- Đức Cha còn tiên liệu cơ sở giao liên giữa vùng cao với vùng Trung Châu cho các chuyến đi khai mở lên vùng Tây Nguyên sau này. Hiểu rằng cần phải có một cơ sở có giáo dân cư ngụ làm điểm giao liên, Đức Cha nhờ ông Cả AN[1] thuộc họ MƯƠNG LỠ (họ Gò Mục, thuộc địa sở Nhà Đá sau này) đem một số ít tín hữu đạo đức đến xây dựng và sống với người lương tại TRẠM GÒ (gần CỬU AN, An Khê ngày nay) để làm nơi trú chân cho các vị truyền giáo khi lên xuống vùng dân tộc Bahnar. Trong số người tín hữu ở điểm này có thầy lang Công giáo uy tín và được dân làng mến yêu.
- TRẠM GÒ nằm một nơi hẻo lánh về phía tây bắc An Sơn (cách thị trấn An Khê ngày nay khoãng trên 10 cây số) và là làng người kinh cuối cùng theo hướng này. Đây cũng là cơ sở giữ trữ lương thực và nơi tập luyện quân lính của anh em Nguyễn Nhạc trước kia.
- Để đến TRẠM GÒ, một con đường khó khăn nhưng dân kinh cũng có thể dùng đến, miễn là từ BẾN (hữu ngạn sông CÔN đối diện VĨNH THẠNH) vượt qua DÓC VÁN thẳng đứng giữa hai đỉnh núi: núi ông BÌNH và núi ông NHẠC. Tại BẾN (sau này có họ đạo ĐỊNH QUANG) được Đức Cha cũng cho một số tín hữu đạo đức đến lập nghiệp và là nơi dừng chân tiếp đoàn truyền giáo lên xuống vùng Tây Nguyên qua ngả TRẠM GÒ không qua An Sơn.
- Trong khi xây dựng các sở này, Thầy Sáu Do vận động mua một môn bài buôn bán tại các buôn làng dân tộc lân cận ranh giới Trung Châu trên đường dẫn đến xứ người Bahnar.
3. Năm
1849-1850. Con người hướng đạo bình tĩnh và can trường
- Đoàn thương buôn giả danh này vào những ngày đầu di chuyển an toàn từ Gò Thị qua An Sơn đến bộ lạc Hadrung (Pleiku) theo trục quốc lộ 19 ngày nay. Một số người dân tộc vùng Hadrung tưởng bở đã gặp được đoàn con buôn giàu có, nên định bắt người cướp của. Giữa đêm khuya, thầy cùng các bạn đồng hành bỏ tất cả hàng hoá lại để thoát thân về Gò Thị, phải chịu đói nhịn khát vì không có gì đổi lấy miếng cơm cho đỡ đói.
- Dầu thất bại lần này, Thầy Sáu Do cũng thu lượm được nhiều kết quả quan trọng đã làm chuyển hướng việc truyền giáo sau này: biết thêm tiếng thổ âm và khám phá ra một con đường khác, tuy khó khăn hơn, nhưng an toàn hơn, theo hướng bắc, sau đó đi về hướng tây nam. Đức Cha chọn con đường này.
- Cuối năm 1849 và đầu năm 1850: hướng dẫn Cha Phêrô COMBES (Cha BÊ)
- Chuyến đi lần sau có Cha COMBES (Cha BÊ đã đến Việt Nam vào năm 1949) cùng 3-4 thầy khác nữa được Thầy Sáu DO dẫn đường. Đoàn thám hiểm có đổi hướng di chuyển so với chuyến đi lần trước, đi từ GÒ THỊ đến TRẠM GÒ mất 3 ngày: hai ngày đi đường sông bằng ghe, ngược dòng sông CÔN đến địa điểm BẾN và từ đó mất một ngày đàng leo núi qua DỐC VÁN mới tới TRẠM GÒ[2]. Chuyến đi này chẳng may đoàn truyền giáo bị đàn voi rượt tại đèo Mang Giang, mỗi người cố thoát thân, một thầy bị trọng thương. Sau khi trốn thoát đàn voi, đoàn truyền giáo đương đầu cơn mưa như trút nước, khe suối đầy nước chảy cuồn cuộn, không sao tiến lên phía trước được. Cuối cùng, đoàn người bụng đói, lạnh thấu xương, quần áo tả tơi cũng đã lần mò về được GÒ THỊ để trình kết quả tội nghiệp cho Đức Cha. Khi nghĩ lại, Cha COMBES cũng ớn lạnh, nhưng tính vui vẻ, cha thường bảo: “Đó là cuộc viễn du của bọn thỏ đế”.
- Đức Cha buồn và nói với họ:
- “Vì thời tiết xấu còn kéo dài, cha cho các con 15 ngày nghỉ ngơi và sau đó các con lại lên đường. Và lần này, đừng có vô phúc mà quay về như vậy nữa!”.
- Đức Cha lại cho Cha FONTAINE (tên kinh là HOÀNG; dân tộc: Bok PHẨM) sửa soạn hành trang tháp tùng Cha COMBES lên đường.
- 4. Một kế hoạch mới táo bạo
- Chuyến viễn du lần này, đoàn truyền giáo gồm hai linh mục thừa sai: Cha Phêrô COMBES và Cha FONTAINE, 7 thầy là thầy BẢO (thầy Tư), TÀI, CHÍNH, BIỂU, BƯỜNG, TIẾN và PHIÊN duới sự hướng đạo sáng tạo đầy táo bạo của Thầy Sáu DO[3]. Thầy vạch ra một kế hoạch thay vì di chuyển ban đêm sẽ đi ban ngày. Nhưng để che bớt làn da trắng có thể làm nguy hại bại lộ, mặt mày chân tay hai vị thừa sai bôi quét một lớp màu sậm, giống như màu da người Kinh. Nhờ vậy, đoàn vượt qua an toàn từ Bình Định đến Trạm Gò. Đoàn voi không rượt nữa, nhưng khó nhọc vất vả vượt đèo lội suối. Đương nhiên là vậy!
- ĐẾN LÀNG BAHAM
- Không rẽ xuống An Sơn hoặc thẳng đến Hadrung phái tây, nhưng từ TRẠM GÒ vượt qua sông BA rồi từ đó đến vùng dân BƠNÂM phía Bắc[4]. Nơi dừng chân đầu tiên của đoàn là làng của một tên cướp, gọi là BAHAM (cha của thằng HAM). Mọi người dân tộc cũng như con buôn người Kinh ớn ông này lắm vì hắn tàn bạo, dữ tợn, háu của, đôi ba vợ; nhưng đoàn truyền giáo buộc lòng phải vào làng này, phó dâng mọi sự cho Chúa Quan phòng. Lạ thay! Trước mặt các vị thừa sai đầy râu ria rậm rạp, gương mặt khác thường, ông BAHAM xuống tinh thần, cho gì lấy đó không dám đòi hỏi, giữ đoàn lại làng 4, 5 ngày, sau đó mới chịu cho đoàn ra đi đến làng BƠLU, cách đó một ngày đàng. Ông chủ làng BƠLU là ông LẬP và cả dân làng khác hẳn với làng BAHAM: niềm nở hiếu khách, trọng đãi đoàn. Ông LẬP kết nghĩa anh em với Thầy Sáu DO.
5. Cuộc gặp gỡ
bất đắc dĩ với Bok KIƠM (Ông KHIÊM)
Ông Khiêm và Thầy Sáu Do kết nghĩa anh em
Ông Khiêm và Thầy Sáu Do kết nghĩa anh em
- Nhờ ông LẬP dẫn lối đến làng KON-PHAR, cách BƠLU 2 ngày đường. Đoàn truyền giáo lòng đầy hân hoan không còn sợ lái buôn người Kinh bắt gặp. Nhưng không ngờ một biến cố định đoạt cả công cuộc truyền giáo miền Tây Nguyên đang chờ đón họ tại KON-PHAR: gặp ông KHIÊM, một lãnh tụ đại diện triều đình HUẾ trên vùng này. Đức Cha luôn căn dặn đoàn truyền giáo phải xa lánh vùng ông KHIÊM hoạt động. Nhưng kìa hiện ra trước mắt một con người to lớn nghiêm nghị. Sau giây phút lo sợ, các ngài bình tĩnh lại sau vài câu nói ôn tồn của ông. Thấy vẻ sợ của nhóm truyền giáo, ông nói:
- “Các ông từ đâu đến? Các ông có vẻ là những nhân vật quan trọng. Vậy lý do nào khiến các ông đã làm một cuộc hành trình vất vả như thế này? Hai ông này có phải là người Kinh ở một tỉnh rất xa xôi không? Tôi chưa bao giờ thấy người nào có nước da trắng như thế này. Hãy thành thật nói cho tôi. Tôi cảm thấy mến các ông. Mặc dầu các ông có chuyện gì ở đồng bằng, ở đây xứ Bahnar, các ông không phải sợ gì cả. Tôi, tôi như một ông vua cả vùng này, và những người Kinh cũng sẽ không làm gì được các ông, nếu tôi bảo vệ các ông”.
- Thấy các vị thừa sai bối rối, ông KHIÊM để đoan chắc lòng thành của mình, xin kết nghĩa anh em với thầy Sáu DO. Ông KHIÊM chỉ vào hai vị thừa sai vừa nói: “Còn hai ông, tôi xin gọi là bố”. Sau khi hiểu nhau, ông dẫn đoàn lên nhà rông và kết nghĩa với thầy Sáu DO với tất cả nghi thức theo phong tục của người Bahnar.
- Ông KHIÊM đã chứng tỏ lòng trung thành tuyệt đối vào tình bạn, lo lắng vật chất cũng như giữ an toàn, không dẫn quan quân của Triều đình Huế đến lùng bắt các ngài. Đó là sự quan phòng của Chúa, nhờ vậy việc truyền giáo ngay từ đầu được xây dựng trên một nền tảng tình thân tự nhiên, chân thành giữa các chủ làng với Thầy Sáu DO, và nhờ đó, tình cảm, lòng tin tưởng dần dần hội nhập vào cư dân vùng Bahnar dễ dàng hơn.
HƯỚNG ĐẾN KON KƠXÂM
Sau một vài ngày
nghỉ ngơi tại KON-PHAR, ông KHIÊM trong tình kết nghĩa với Thầy Sáu DO đã đưa
bạn mình cùng toàn thể đoàn truyền giáo đến KON-KƠLANG về hướng tây nam cách đó
một ngày đường tới nhà ông BLIU, chủ làng và là bạn ông và nhờ ông tận tình
giúp đỡ. Sau đó, vì sợ con buôn người Kinh, trong khi chờ đợi những làng xa hơn
chịu nhận đoàn đến tá túc, ông BLIU đã đưa đoàn ra giữa cánh đồng âm u hoang
vắng dựng nhà. Đây là nhà nguyện đầu tiên trên vùng Tây Nguyên.
a. Năm
1850-1851: ĐÓN ĐOÀN
TRUYỀN GIÁO THỨ HAI – CUỘC GẶP MẶT CẢM ĐỘNG
Ngày 11-11-1850,
Thầy THÁM em Thầy Sáu DO dẫn đường cho hai linh mục thừa sai lên vùng Tây
Nguyên là Cha DOURISBOURE (Cha ÂN, 24 tuổi) và Cha DESGOUTS (Cha ĐỀ, 45 tuổi).
Được tin, Thầy Sáu DO vội vã từ KƠLANG đi đón. Đoàn khởi hành qua ngã
TRẠM GÒ vào trung tuần tháng 11, vượt núi hướng về làng BAHAM. Với sự thận
trọng, cuối cùng Thầy Sáu đã gặp được các vị, tay bắt mặt mừng. Ở một vài ngày
tại nhà ông BAHAM, sau đó đến làng BƠLU và được đón tiếp niềm nở. Cha Đề kiệt
sức. Từ BƠLU đến KON-PHAR phải mất 2 ngày đường leo núi. Trời mưa dai dẳng
trong tháng 11 tại Tây Nguyên đã làm cho các lối đi hầu như không sử dụng được
nữa. Nghỉ tại làng BƠLU một tuần lễ, mừng Giáng Sinh trên vùng Tây Nguyên lần đầu
tiên. Trong những ngày cuối của năm cũ, đoàn vừa ra khỏi làng BƠLU, mưa tầm tả,
bầu trời tối mịt, màn đêm buông xuống trong khi các ngài ở giữa rừng, được số
anh em thượng đi theo làm một cái chòi lá để qua đêm. Chúng ta nghe lời tự
thuật của Cha ÂN về cảnh tượng này:
- “Cha DESGOUTS Đề không còn hơi sức chuyện vãn được nữa. Ngài nói: “Tôi chịu hết nổi rồi” và nằm dài dưới đất. Sáng hôm sau, để đánh thức ngài dậy, tôi mừng năm mới, đó là ngày 1-1-1851. Tôi nói với ngài: “Này Cha, can đảm lên, chỉ còn 2 ngày đàng nữa là chúng ta sẽ ôm nhau hôn các bạn thân hữu của chúng ta thôi”.
- “Chúng tôi lại lên đường, nhưng vừa đi được độ trăm bước thì Thầy Sáu DO đang mở đường đi trước, bỗng hét lên một tiếng và nói to “Laudate Dominum omnes gentes” (Hãy ngợi khen Thiên Chúa, hỡi các chư dân). Tôi đã đạp phải chông và thầy ngã, ngồi bệt xuống, một cây chông bằng lồ ô sắc nhọn đã xuyên thủng bàn chân của thầy”.
- Máu chảy lai láng, đau nhức, dần dần bàn chân thầy sưng lên. Vì đầu chông còn nằm trong bàn chân, mặt mày thầy tái nhợt như xác chết. Cha ÂN nói tiếp:
- “Nhưng chính trong trường hợp gây cấn như thế, ta mới thấy đức tin của Thầy sáng chói một cách đặc biệt. Thầy Sáu không ngừng lắp bắp: “Chúc tụng Thiên Chúa. Tôi bắt đầu năm mới tốt quá”.
- Người làng dân tộc đã cắm chông nghe tin đến xin lỗi và làm một cái cáng chuyển Thầy về làng nghỉ ngơi và băng bó vết thương. Thầy Sáu cố làm cho họ yên tâm và an ủi họ và ráng sức bớt vẻ mặt đau đớn kẻo làm cho họ thêm buồn lòng.
- Ngày hôm đó, đoàn cố gắng đến KON-PHAR. Thầy Sáu DO nằm trên chiếc cáng lắc lư làm vết thương đau nhói, và đành nằm lại KON-PHAR một thời gian. Thầy không có mặt khi 4 vị thừa sai hội ngộ tại KƠLANG. Đó là ngày 2-1-1851. Ít lâu sau, Thầy mới đến nơi, được một dân làng KON-PHAR cõng trên lưng đưa tới.
- Mấy ngày sau, vết thương của Thầy lành dần, và 3 tháng sau, phần đầu chông nằm lại bên trong mới tự mở đường trồi lên phía mu bàn chân.
- b. NHỮNG NGÀY LƯU TẠI KƠLANG VÀ KHÁM PHÁ MIỀN ĐẤT HỨA
- Nhờ tình bạn kết nghĩa anh em với Thầy Sáu DO, ông KHIÊM có lần đến thăm đoàn truyền giáo đang ở tại KƠLANG, thấy bữa ăn bên cạnh nồi cơm chỉ có một mớ hổ lốn lá cây rễ cỏ ngoài rừng, ông ứa nước mắt. Hai ngày sau khi ông ra về, các người làm của ông đã đem đến cho đoàn 1/4 con trâu, một con heo và năm ba con gà làm quà tặng bạn.
- Ngày tháng trôi qua tại KƠLANG, thiếu thối, bệnh tật, cô đơn, đau khổ, nhất là chưa đi đâu và tìm cho ra mảnh đất. Đức Cha lưu ý:
- “Khi các cha đến chỗ cách KƠLANG một vài ngày đàng về hướng tây, và nếu các cha gặp được con sông mà người ta đã cho tôi biết, thì chắc các cha sẽ tìm thấy vùng đồng bằng ở hai bên bờ sông, các cha hãy hạ trại lưu trú ở đó và hãy biết rằng các cha đang ở trong vườn nho được giao phó cho các cha chăm sóc vậy”[5].
II. ĐI KHẢO
SÁT TẠI KON KƠXÂM
Chính nhờ tình
anh em kết nghĩa giữa Thầy Sáu Do và các Ông Khiêm, Ông Lập, Ông Bliu… cũng như nhờ biết được một số vốn tiếng
dân tộc, với tính hiếu hoà, khôn ngoan, thận trọng và sáng kiến, linh động của
Thầy, dần dần đoàn truyền giáo đến ở tại KON-KƠXÂM một thời gian. Chúng tôi xin
trích đoạn trong quyển sách “Les sauvages Bahnars”, Paris 1929, chương 6
của cha Dourisboure như sau:
“Thoạt khi chúng
tôi gặp ông Hmur làng Kơ-lang và được biết ông từ đâu đến, chúng tôi vội vã hỏi
ông xem trong trường hợp chúng tôi đến thăm nhà ông liệu ông có bằng lòng hay
không. Ông trả lời nếu chúng tôi muốn lưu trú tại Kon KơXâm thì ông không có
quyền ưng thuận mà không hỏi ý kiến dân làng trước; nhưng nếu chỉ đi chơi và có
ông Bliu tháp tùng thì ông ta sẵn sàng đón tiếp chúng tôi tại nhà ông một ngày
hai đêm. Đó là tất cả lòng mong ước của chúng tôi lúc này; và chúng tôi đã hẹn
ngày nhất định để ông khỏi đi đâu vắng nhà.
Từ KơLang đến Kon
KơXâm xa chừng một ngày đường, và rải rác trên tuyến đường này phải đi qua 7-8
làng Thượng, nhưng chúng tôi đã không vào một làng nào. Vì không có con đường
nào khác ngoài con đường nối liền giữa các làng với nhau, vì thế nếu không muốn
đi theo lối độc đạo đó thì buộc lòng phải mở con đường khác xuyên qua cỏ cao
bụi rậm trong rừng. Chúng tôi đã làm như thế, vì vậy cuộc hành trình trở nên vô
cùng vất vả. Lúc chập choạng tối, chúng tôi đến gần làng PơNăng, cách Kon KơXâm
độ nửa tiếng đồng hồ. Làng này đang mừng lễ, đang vui chơi đủ trò, có cả nghi
thức hạ trâu của người Bana nữa. Tất cả dân làng đã tụ tập trên một sân rộng lúc
chúng tôi đi ngang qua sườn đồi bên kia làng. Ý chúng tôi là muốn đi vòng ngoài
để tránh như đã tránh các làng khác. Nhưng chúng tôi đã bị phát hiện và tội
nghiệp cho đám dân tưởng chúng tôi là kẻ địch đến đánh lén. Lập tức cả làng
kinh hãi, hết mọi người đàn ông, đàn bà, trẻ con đều thi nhau la hét nghe thật
khủng khiếp như họ thường làm khi gặp nguy biến. Nhưng khi nhìn thấy chúng tôi
đi qua luôn và không việc gì phải sợ nữa thì yên tĩnh dần dần trở lại, họ
ngừng la hét và niềm vui bị xáo trộn chốc lát nay tiếp tục trào dâng.
Khi chúng tôi đến
hàng rào bao quanh Kon KơXâm thì trời đã sập tối. Cổng làng đóng kín, ông Bliu
bèn gọi ông Hmur; nhưng ông này nghĩ rằng trước khi ra gặp chúng tôi, nên cho
dân làng biết trước việc chúng tôi đến. Tất cả đàn ông nhóm họp tại nhà rông để
thảo luận có nên cho chúng tôi vào làng hay không. Thời đó ông Hmur là người có
uy tín nhất làng, vì nỗi tiếng chính trực, can đảm khi chiến đấu, và biết khéo
léo giải quyết những vụ việc khó khăn. Ông đã đứng về phía chúng tôi, và ý kiến
thuận của ông mang tính quyết định trên nhiều ý kiến khác. Tuy nhiên, cuộc bàn
cãi kéo dài, và tiếng thảo luận khá sôi nổi thấu đến tai chúng tôi. Phần chúng tôi
vẫn kiên nhẫn đứng trước cổng làng đóng kín, chờ đợi mà không biết kết cục sẽ
ra sao. Cuối cùng ông Hmur đã thắng, ông liền ra mở cửa đưa chúng tôi vào nhà
ông và chúng tôi qua đêm ở đó.
Khi đến Kon KơXâm,
chúng tôi đã gặp con sông mà chúng tôi đã từng nghe nói rất nhiều, đó là dòng
Dakbla, chảy từ Bắc xuống Nam, và đến Kon KơXâm thì sông đổi hướng rẽ về hướng
Tây. Tôi xin nói ngay rằng con sông khi chảy đến Kon KơXâm thì đã trở nên khá
rộng, nhưng vì bị thắt bóp lại giữa hai dãy núi làm dòng chảy trở nên rất siết.
Ngoại trừ mùa mưa nước sông dâng lên rất cao, còn bình thường thì không sâu lắm.
Đã từ lâu Đức cha
Cuénot từng nghe nói về một con sông chảy qua vùng người dân tộc Bahnar và đổ
vào con sông lớn bên Lào, và dựa theo những chỉ dẫn đó, thì kế hoạch truyền
giáo của Đức Cha thoạt tiên bao gồm một miền rộng lớn, trong đó có cả xứ Lào và
như vậy nhiệm vụ được phân phối như sau: Cha Combes đảm trách truyền giáo cho
dân Bahnar; Cha Desgouts thiết lập một tiểu chủng viện cho người An Nam; Cha
Fontaine và tôi lãnh nhiệm vụ là khi gặp con sông Dakbla này, thì kiếm thuyền
mà ngược dòng đến tận Lào.
Sáng hôm sau,
chúng tôi công khai trình diện mặt mũi cho dân làng Kon KơXâm xem. Đám dân chưa
bao giờ trông thấy chuyện kỳ lạ như thế. Chúng tôi vui sướng vì đã có thể làm
thoả mãn tính tò mò của họ, dù hết mọi người kể cả những người mạnh dạn nhất
đều giữ một khoảng cách nào đó, may thay họ có vẻ không sợ hãi lắm. Rất tiếc
chúng tôi không thể trò chuyện với họ được cũng như không thể hỏi họ những chỉ
dẫn về các vùng phụ cận vì chúng tôi không biết tiếng Bahnar. Chỉ một mình Thầy
Sáu Do biết được đôi tiếng và vì ngôn ngữ bất đồng, nên chính Thầy cũng khó
khăn lắm mới làm cho họ hiểu được. Chính vì vậy mà chúng tôi đã luống công vô
ích khi cố gắng xin họ một chiếc ghe để xuôi dòng Dakbla kèm thêm một người hướng
dẫn.
Làng Kon KơXâm
nằm về phía tả ngạn sông Dakblah, có rào phòng thủ sát bờ nước. Phía bên kia bờ
sông tức phía Tây, trước mặt chúng tôi có một ngọn núi cao chắn ngang tầm mắt.
Dân làng đang nhìn ngắm dò dẫm chúng tôi, thì Cha Combes bèn nói với tôi: “Nào,
Cha còn khoẻ, hãy thử lên ngọn núi kia và xem đàng xa có đồng bằng nào không”.
Không đợi năn nỉ, tôi tiến về phía núi một mình, đang khi người bạn đồng liêu
của tôi làm dân làng tò mò thích thú bằng cách cho họ xem một vài sản phẩm Tây
phương mà họ không ngớt trầm trồ khen ngợi, ngắm nghía.
Cuộc leo núi thật
vất vả, tất cả gai góc, dây leo, cỏ rậm có trên mặt đất dường như hội tụ cả nơi
đây. Chẳng có dấu vết đường mòn nào và sườn núi thì lại thẳng vách như bức
tường, cuối cùng, sau nhiều cố gắng, tôi đã lên đến đỉnh núi, thở hổn hển chẳng
ra hơi. Chính giữa đỉnh núi có một cây rất cao. Để nhìn được xa tối đa, tôi bèn
leo lên cây này, và ở đó xảy ra một tai nạn mà hiện giờ khi nghĩ đến tôi vẫn
còn thấy lạnh sống lưng. Trước hết vì tôi đã gắng quá sức để trèo núi, rồi leo
lên cây, rồi gió lạnh đột ngột thổi đến khi trong người ước đẫm mồ hôi, hay vì
nguyên do nào khác, tôi cảm thấy tối tăm mặt mày và bất tỉnh hoàn toàn khi vừa
leo đến ngọn cây. Cơn bất tỉnh kéo dài bao lâu? vài giây chăng? vài phút hay lâu
hơn? Tôi không biết chắc; điều rõ ràng là khi tôi tĩnh lại, tôi thấy hai tay
đang ôm cứng thân cây, thất kinh hồn vía. Tôi vội thưa lớn tiếng: “Lạy Chúa,
chỉ mình Chúa đã cứu con thoát chết. Chúc tụng Chúa đến muôn đời”. Cảm giác
kinh hoàng mạnh mẽ đến nỗi, sau khi tuột xuống đất rồi, toàn thân tôi vẫn còn run
lẩy bẩy.
Những vất vả khó
nhọc của tôi đã chẳng đem lại kết quả gì; bởi vì những ngọn núi khác gần đó che
kín chân trời hướng Tây không cho tôi nhìn thấy chi cả. Vì vậy tôi trở về thuật
lại cho Cha Combes những cố gắng vô ích vừa qua và nhất là về lòng thương xót
của Chúa quan phòng nhân hậu đã chiếu cố đến tôi. Tuy không hoàn toàn thành
công như lòng mong ước, nhưng cuộc du hành của chúng tôi đến Kon KơXâm cũng đã
là một biến cố quan trọng bởi vì nhờ ảnh hưởng của ông Hmur đối với dân làng và
mối thịnh tình của ông ta dành cho chúng tôi, cho nên lúc trở về, chúng tôi đã
quyết định sẽ sớm trở lại Kon KơXâm để cất nhà định cư ở đó.
Tuy nhiên, vì
hoàn toàn không hay biết chuyện người ta đàm tiếu về mình, cho nên chúng tôi
vẫn tiếp tục chương trình như đã dự định. Ai trong số chúng tôi ít ốm đau thì
đi với Thầy Sáu Do đến Kon KơXâm để làm một căn nhà nhỏ. Ông Hmur hết lòng đón
nhận họ, nhưng người của chúng tôi đã sớm nhận thấy anh em Thượng đã không còn
sẵn lòng đối với mình nữa. Tại Kon KơXâm cũng như tại nơi khác, khi thấy ai vận
y phục người Kinh thì tất cả các bà liền chạy trốn. Lúc xin phép cất nhà ở
trong làng thì mọi người đều từ chối, trừ ông Hmur. Ông này cho Thầy Sáu Do
biết kết quả cuộc thảo luận như trên và dẫn Thầy đến một nơi xa làng độ một
phần tư dặm, nơi thấp hơn và cũng trên bờ sông Dakbla và nói: “Các ông hãy dựng
nhà ở đây. Đất này không thuộc về ai cả, tôi đảm bảo bên vực cho các ông”. Mặc
dầu hết lòng với chúng tôi, người đàn ông can trường này cũng không hề cho
chúng tôi hay biết về những lời bịa đặt mà tên Diong-Dia đã gieo rắc và đó cũng
là nguyên nhân độc nhất đã làm chúng tôi mất uy tín nơi mọi người.
Làm xong nhà, Cha
Combes và tôi rời KơLang đến trú ngụ tại Kon KơXâm. Cha Fontaine, chân còn đau
nên chưa thể đi; còn Cha Desgoust vẫn phải nằm lại vì yếu quá, khi tưởng mình
có thể đi được rồi và nhất quyết lên đường đến với chúng tôi, nhưng lực bất
tòng tâm, dọc đường suýt nữa ngài đã phải chấm dứt chút hơi tàn của mình. Số là
sau khi đi cho đến trưa, nói lết thì đúng hơn, ngài ngã quỵ vì kiệt sức, phải
khiêng đến Kon KơXâm, dở sống dở chết. Và suốt cả ngày, chúng tôi đã sợ ngài
qua đời mất! Một mình Cha Fontaine ở lại với hai thanh niên đang bệnh, và cũng đã
bắt đầu thấy chán và vì không chịu nổi thêm nữa nên ngài cũng lên đường. Và rồi
một hôm đẹp trời, chúng tôi vừa vui mừng vừa ngỡ ngàng thấy ngài đến với chúng
tôi, thở hổn hển chẳng ra hơi. Ngài đã đi bằng một chân, chân kia chống nạng,
vượt qua đoạn đường thật khủng khiếp suốt một ngày đường!”.
III. CÁC CHI
(NHÓM) NGƯỜI BAHNAR NÓI CHUNG VÀ NGƯỜI JƠLƠNG NÓI RIÊNG
Việc phân loại
người Bahnar khá khác biệt, tuỳ theo lối nhìn của từng tác giả và tuỳ từng thời
đại.
1. Ngày nay, hầu
hết các tác giả nghiên cứu về nhân chủng học các cư dân vùng Tây Nguyên đều
công nhận cư dân Bahnar là 1 trong 4 dân tộc thiểu số lớn nhất ở Cao nguyên
trung phần; số dân trên 100.000 người vào thập niên 1970, đông nhất là ở tỉnh
Bình Định và Kontum.
Nguồn gốc dân tộc
là Indonésien, tiếng nói thuộc loại MÔN-KHƠME. Họ có nhiều chi rải rác trong
một địa vực rộng lớn từ nam tỉnh Bình Định (Bahnar Chàm ở Vân Canh, khoảng
5.000 người); ngược lên bắc Bình Định (Bahnar Kren, vùng Vĩnh Thạnh, An Lão,
khoảng chừng 8.000 người); hướng về phía tây (Bahnar Roh ở rải rác trong vùng
An Khê, ước chừng 12.000 người); Bahnar Bơnom hay Bonâm (đông An Khê, chừng
7.800 người), Bahnar Tolotenil (nam An Khê độ 10.343 người), Bahnar Alakong
(bắc An Khê 11.000 người; một số ở quanh An Khê); Bahnar Tơsang (ở đông Pleiku)
Bahnar Jơlar (ở bắc Pleiku); Bahnar JƠLƠNG (đông bắc Kontum) và Bahnar Rơngao
(vùng thị xã Kontum).
2. Dân tộc Bahnar
phát xuất từ đâu? Theo những địa danh, yếu tố văn hoá cổ đại, các huyền thoại…
người ta có thể giả định trên mảnh đất đang được người Bahnar cư trú đã có một
dân tộc cổ đại mà nay không còn nữa. Đó là người lùn, đen thuộc đại chủng
Oxtralid. Người Bahnar ở nơi khác đến lấn chiếm vùng cư dân này. Một số người
cho rằng người Bahnar từ phía tây nam đến; một số người khác cho rằng họ tự
miền biển chạy lên vùng núi do các cuộc lấn chiếm của dân tộc Chàm từ miền biển
và của các cư dân khác vì bị dân Chàm đánh đuổi, nên theo dọc sông Ba, và sông
Hin tây tiến, dần dần đến tận vùng Hadrung (vùng quanh núi Hadrung, người Kinh
gọi là núi Hàm Rồng) và mặt nam của tỉnh Gialai ngày nay. Phía bắc, cư dân Sơđang,
phía tây người Rơngao và Halang án ngự. Giả thuyết sau có sức thuyết phục hơn.
Sau ngày thống
nhất (vào những năm 1981), người Bahnar có khoảng 110.000 người; ở tỉnh Gialai
và tỉnh Kontum có trên 96.000 người. Họ đã có ý thức thống nhất về dân tộc, tuy
do những cuộc chiến giữa các bộ tộc trên vùng Tây Nguyên này, nhất là vì những
con đường chiến lược của Chàm và của các thế lực khác. Dân tộc Bahnar tự phân
giới khá rõ ràng và cũng có những nhóm khác nhau, đến nỗi nhiều nhóm chưa rõ
mình thuộc dân tộc nào.
3. Vì đường giao
thông khó khăn, do thời cuộc phức tạp, các vị thừa sai đã đến truyền giáo vùng
Tây Nguyên cho người Bahnar vào năm 1852 và những năm kế tiếp được giới hạn tại
thì xã Kontum và đông bắc Kontum (người Jơlơng). Địa dư dân cư của vùng cư dân
này được Cha Bề trên Combes Bê trình bày trong lá thơ gởi cho các vị bề trên
Trường Truyền giáo Hải ngoại Paris,
viết tại Kon Kơxâm ngày 29-9-1853 như sau:
“Người Bahnar cư
trú tại vùng đất nằm khoảng 14 độ và vài phút bắc vĩ tuyến và khoảng 104 độ
đông kinh tuyến. Vùng đất của họ của họ ở bị giới hạn: phía đông đông bắc do
dân Bơnam; phía bắc tây bắc là người Sơđang; phía tây là cư dân Rơngao và người
Halang. Người Jrai ở phía nam, một cư dân đông đảo và quan trọng nhất dưới mọi
khía cạnh”.
“Số làng người
Bahnar lên tới 90 đến 100 làng và cư dân không quá 25.000 người. Họ cư trú một
vùng đất 15 đến 20 dặm từ đông sang tây và cũng bằng khoảng đó từ bắc xuống nam.
“Tất cả mọi nơi
rừng là rừng nối tiếp nhau và rậm rạp, bị người bản địa đốn phá dần dần. Núi
khắp nơi, tuy không cao nhưng toả về tứ hướng. Cảnh trí này lẽ tự nhiên tạo nên
một số lớn sông suối, thác nước khắp nơi. Có một số chảy xuống phía đông về
Trung Châu, một số khác đổ dòng về triền núi trái ngược và phụ lưu cho sông
Bla, một con sông bắt nguồn từ vùng cư dân Sơđang dọc theo vùng cư dân Bahnar
từ bắc xuống nam và đổ vào một con sống lớn của Lào tận xa ngút ngàn”.
Ngày nay, dù cảnh
rừng rú um tùm, cây cối sông suối, dã thú của ngày xa xưa đã mất một phần lớn,
nhưng các sông núi chính yếu vẫn còn và gợi lại cho ta như điểm mốc làm chuẩn
để đi tìm lại những địa danh một thời đã in vết chân truyền giáo của các vị
thừa sai tiên khởi.
* Về sông suối
Trung tâm Truyền
giáo Kon Kơxâm nằm tả ngạn sông ĐAK-BLAH, dòng chảy theo hướng bắc-nam
đến Kon-Kơxâm đột ngột đổi hướng về phía tây. Cha Dourisboure có viết: “Đến Kon
Kơxâm, điều đáng chú ý nhất là chúng tôi đã gặp con sông mà chúng tôi đã nghe
nói đến rất nhiều. Đó là con sông DAK-BLAH, chảy từ bắc xuống nam, nhưng đến
Kon Kơxâm thì bỗng chốc đổi dòng và chảy về hướng tây. Nơi đây, con sông đã khá
rộng, nhưng nước chảy rất siết vì dòng sông nằm ở giữa hai dãy núi (…)”.
Sông PƠNE từ
đông bắc đổ vào thượng lưu sông ĐAK-BLAH.
Sông PƠKEI
từ dãy núi phía đông Kon Kơxâm chảy nhập vào sông Dak-Blah gần Kon-Kơxâm.
Suối MƠTƠNG
(có khi gọi PƠTONG) chảy suốt từ Pleiku (An Mỹ), lấy nước của suối ĐAK-DOA,
ngang qua vùng nam Kon Sơlăng sau khi được phụ thêm nước của suối Sơmei, rồi
ngược lên bắc nhập vào sông Đak-Blah, gần KON-BAH. Vùng đất nhiều sông suối đầm
lầy, nhất là vùng PƠKEI mà đầu thế kỷ này cha GUERLACH CẢNH đã hy sinh
tự nguyện xin đến truyền giáo dân SƠNGLOK.
* Về dân cư
Cư dân BAHNAR-JƠLƠNG
hiền hoà, nhưng còn lạc hậu nghèo khổ, là nạn nhân của bệnh tật như sót rét
rừng, dịch đầu mùa…, nhất là luôn bị sức ép của cư dân Hadrung nằm phía đông
đông nam.
“Vì các cuộc đột
kích không ngừng của nhóm người Hadrung mà hơn 100 làng Bahnar, khi chúng tôi
đến cao nguyên vẫn còn định cư các phần đất phía nam sông Mơtông và sông
Dak-Blah, đã phải phân tán và đi sáp nhập vào các làng ở bên kia sông. Do vậy,
một vùng mênh rộng lớn, trước kia rất đông dân cư và đất đai rất tốt cho việc
trồng trọt, nay phải bị bỏ hoang, không một bóng người”.
Đây là phần đất
và cư dân mà Trung tâm Truyền giáo Kon-Kơxâm phải đảm nhận rao giảng Tin Mừng suốt
một thời gian dài với những thời kỳ thăng trầm.
IV. TIỂU
SỬ CÁC VỊ THỪA SAI KHAI MỞ KON KƠXÂM
A-
. CHA BỀ TRÊN COMBES
Cha Gioan
Phêrô Combes, vị tông đồ tiên khởi vùng Truyền giáo Tây Nguyên.
Ngài nhập Hội
Thừa sai Paris
ngày 17-9-1847.
Thụ Phong linh
mục ngày 17-6-1848.
Lên đường đến
Vùng Truyền giáo Đông Dương (Đàng Trong) vào ngày 6-9 cùng năm; bị cướp bể tấn
công 6, 7 lần và bị thương nặng.
Vừa đến nơi,
vào năm 1850, được gởi lên vùng dân tộc Bahnar cùng với Thầy Sáu Do. Phải lui
về và báo cáo cho đức giám mục con đường xuyên sơn hầu như không thể đi được;
Đức cha Cuênot cho nghỉ thời gian ngắn và lệnh phải lên đường ngay. Trước nhất
tạm trú tại Kơlang và sau đó lưu tại Kon Kơxâm. Phải chịu bao cực khổ thể xác
cũng tinh thần: hầu như cơn sốt rừng hoành hành liên tục, thiếu lương thực và
bị dân bản địa chống đối.
Năm 1851, Cha
Combes được bổ nhiệm Bề trên Vùng Truyền giáo; được Đức cha Cuênot muốn tấn
phong làm giám mục và đặt làm giám mục phó. Ngài soạn kinh buổi sáng tối bằng
tiếng Bahnar. Nhưng một ít giờ sau khi nhận tin này, vị thừa qua đời vào ngày
14-9-1857. Được an táng tại Kon Kơxâm theo nghi lễ thông thường. Sau một thời
gian, Địa phận di hài ngài về Kontum. Nay hài cốt ngài lưu giữ tại Nhà nguyện
Chủng viện Thừa sai Kontum cùng với các linh mục thừa sai ngoại quốc khác cũng
như linh mục bản quốc. Thành quả truyền giáo gặt hái được ngoài mong ước.
CHA COMBES Ở
KON KƠXÂM –
“CƠ SỞ TRUYỀN
GIÁO ĐỨC MẸ GIẢI CỨU”
Giữa 4 vị thừa
sai ở miền Thượng Bahnar lúc bấy giờ chỉ có 2 người được diễm phúc làm lễ mỗi
ngày đó là Cha Combes ở Kon KơXâm và Cha Desgouts ở RơHai. Sau mấy tháng chuyên
chăm học tâp, Cha Combes tàm tạm nói được tiếng Bahnar, vì vậy anh em Thượng
bắt đầu giao tiếp càng ngày càng nhiều với ngài và không bao lâu họ đã nhận ra
lời vu khống của Diong Dia và họ càng tin tưởng ngài. Họ mời Cha Combes bỏ căn
nhà ngoài rừng về mà dựng nhà ở giữa làng họ. Dân làng Kon Kơ Xâm dựng lên cho
ngài một ngôi nhà trong làng và ngài đã đặt ngôi nhà và dân làng dưới sự bảo
trợ của Đức Mẹ. Từ đó, Kon KơXâm mang tên “CƠ SỞ TRUYỀN GIÁO ĐỨC MẸ GIẢI
CỨU”.
1. Tình trạng cư dân
Kon Kơ Xâm đối với các vị thừa sai (1851-1857)
Sau khi quyết
định thành lập TTTG cho người Jơlơng, cha Combes Bê phụ trách Kon Kơ xâm. Lúc
đầu người dân Kon Kơ Xâm sợ sệt, tránh né và còn nghi ngờ về đời sống của các
ngài do một anh chàng thanh niên lang thang, lười biếng muốn ăn không muốn làm
là Diong Dia, bôi nhọ. Nhưng nhờ đời sống tốt lành, của các Ngài, người dân làng
dần dần mến phục các ngài, đặc biệt đối với cha Combes Bê. Tuy nhiên trong số
đó, cũng có người muốn tìm cách sát hại các ngài, đứng đầu là ông Poi. Âm mưu
hại sát các vị thừa sai xảy ra ngoài sự hiểu biết của các Ngài. Chỉ nhờ lòng an
đảm, thẳng thắn, trung thực của ông Hmưr, các vị thừa sai mới thoát nạn. Cha Dourisboure
Ân, sau khi ghi lại thái độ vạch mặt chỉ tên những kẻ đứng đầu âm mưu, viết lại
những lời lẽ can đảm của ông Kmur như sau :
“Hãy đứng lên xem
nào, các người là những kẻ hèn chỉ biết nói thầm lén sau lưng và âm mưu ác đức
trong bóng tối. Đồ hèn nhát, người nào dám trả lời tôi, hãy đứng dậy xem. Phải
tôi nói thẳng trước mặt cả làng, tôi thương mến những người nầy, bởi vì họ tốt
lành và chỉ mình tôi biết đối xử công bình với họ (…)” [6]
Nhưng nhờ được
cảm hóa do đời sống đạo đức, tốt lành của cha Combes Bê, ông Poi, kẻ đứng đầu
âm mưu sát hại nầy, mấy năm sau xin tòng giáo và trở nên một Kitô hữu sốt sắng:
“Khốn nạn thân
tôi, (anh nói với cha Combes) thưa cha, trước kia tôi đã muốn ám sát cho. Nhưng
bây giờ, nếu có ai muốn tấn công cha, thì tôi sẵn sàng bảo vệ cha và chết vì
cha”[7]
2. Con người của
cha Bề Trên Combes Bê.
Cha Combes Bê có
một lòng đạo đức Sâu xa, và nhân ái với hết mọi người. Cha có một sức hấp dẫn
thánh thiện cách đặc biệt với những ai tiếp xúc với Ngài. Ngài cảm hóa
được người khác ngay cả những người ác ý muốn ám hại ngài như ông Poi. Ngài hội
đủ mọi tư cách, khả năng để Đ.giám mục Cuénot Thể chọnngài làm Giám mục phó có
quyền kế vị.
Cha Bề Trên Combes
Bê mang một lý tưởng truyền giáo sâu xa. Tại Kon Kơxâm, Ngài viết thư cho các
vị Bề trên trường Truyền giáo Paris, được cha Dourisb ure viết đính kèm trong
quyển hồi ký “Les Sauvages Bahnars”, nói lên ý hướng truyền giáo của Vị Bề Trên
tiên khởi tại vùng đất Tây Nguyên. Sau khi phát họa địa dư, dân cư, những khó
khăn, cha Combes Bê viết tiếp :
“Chỉ có một sự
vui thích mà chúng tôi cảm nghiệm được trong các cuộc hành trình đầy gian khổ,
nguy hiểm của chúng tôi, đó là ý muốn chúng tôi ra đi chỉ vì DANH THIÊN
CHÚA ; đó là hoài bão mong thu góp cho Người một vài linh hồn. Chỉ động
lực nầy không đủ cổ vũ vị thừa sai chống chọi những cơn mệt mỏi và đem lại cho
họ một niềm vui thú hăng say hay sao ?[8]“
Hoài bão đó của
người được thể hiện vào những ngày đầu của công cuộc truyền giáo còn âm u tại
Kon Kơ Lăng, như cha Dourisboure Ân thổ lộ:
“Trước kia cha
Combes có nói khi tất cả chúng tôi còn mới đến ở Kon Kơ Lăng : Chớ gì
trước khi chết, tôi có thể hân hoan rửa tội được 5 người lớn, hoặc tít nữa là
dự bị xong cho 15 dự tòng, lúc đó tôi sẽ vui vẻ đọc câu: Nunc dimittis”[9].
3. Học
tiếng nói
Để đem lời Chúa
cho anh em dân tộc còn bán khai, Vị Thừa Sau ý thức tầm quan trọng thiết yếu
việc học tiếng nói của cư dân, phương tiện gặp gỡ và chia sẻ niềm tin cho họ.
Vì thế, khá còn ở Kon Kơ Xâm các vị thừa sai bắt đầu học tiếng Bahnar. Các Ngài
xin ông Haur nhận cho 3 người vào ở trong nhà ông để học tiếng nói. Ông đã vui
nhận lời. Cái khó khăn trong việc học tiếng là không có phương tiện nào, không
có tự điển…. Do đó, qua nhiều tháng ở miền nầy các ngài chỉ biết một vài từ
Bahnar mà thôi. Chúng ta nghe cha Dourisboure Ân tâm sự :
“Trên đời nầy ít
có cái gì khó hơn là học một ngôn ngữ mà không có sách vở, không có tự điển,
không có thông ngôn, và nhất là khi những người nói thổ ngữ là những anh em
thượng khốn khó, biết ít hiểu chậm. Người thượng sẽ nói cho chúng ta cái kia
cái nọ tiếng thượng gọi là gì, nếu chúng ta chỉ vào vật đó mà hỏi họ. Nhưng nếu
là những trừu tượng, thuộc lãnh vực trí tuệ hay luân lý, tất cả những gì mà
giác quan không tiếp xúc được, thì chúng ta có một mình tự đoán lấy thôi.” [10]
Chỉ trong vòng 3
tháng, khi cha Combes Bê biết nói vừa đủ tiếng Bahnar, thì anh em dân tộc bắt
đầu giao tiếp ngày càng nhiều với Ngài. Trong một thời gian ngắn, dân làng nhận
rõ những sự vụ khống trắng trợn của Diong Dia. Dần Dần họ tin yêu, đến nỗi họ
tự động mời Cha bỏ ngôi nhà ngoài rừng mà về dựng nhà ở giữa làng với họ.
Trước nhất, Cha
nhận thấy đã đến thời kỳ thuận tiện để thực hiện lời khấn, khi Ngài bị quân tàu
ơ tấn công ngoài biển Đông. Đến làng hợp lại làm cho Ngài một ngôi nhà bên
trong lũy rào của làng. Ngài giữ lời khấn và đặt cho ngôi nhà này và cả làng
dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ. Từ đó, Kon Kơ xâm mang tên là “Xứ truyền giáo Đức
Bà Giải Cứu”. Việc nầy xảy ra giữa năm 1852.
Cũng vào thời
gian nầy, dân làng Kon Kơ Xâm chưa ai xin tòng giáo, tuy nhiên, một mặt có sự
hiện diện của Mẹ Maria, trung gian dẫn đưa những người dân tộc vùng Jơlơng đến
với Chúa Kitô, mặt khác có một thiện cảm ngày càng sâu sắc với vị thừa sai nhân
ái, nhất là nhờ lòng trung kiên của ông Hmur, những người nhà của ông, dần dần
dân làng noi theo xin tòng giáo.
4. Người dự tòng đầu tiên : Ông
Hmur[11]
Cha Combes Bê
trước kia cũng nhận định “ông Hmur sẽ là dự tòng đầu tiên tiên khởi của tôi.”,
và lời tiên đoán đã hiệu nghiệm.
Ông Hmur, người
làng Kon Kơ xâm, một người bà con với ông Bliu vì công việc gì đó đến Kon
Kơlăng, nơi các vị thừa sai đang tá túc. Đó là cuộc gặp gỡ đầu tiên.
Nhờ lòng trung
thực, can đảm của ông, các vị thừa sai đã đến được Kon Kơ Xâm như chúng ta đã
biết. Ngoài việc ông che chở cho các ngài, ông còn đảm nhận việc mua lương thực
giúp cho các ngài trong nhiều tháng trời, khi vùng đó bị đói kém (1851-1852),
mà không lấy một thù lao nào, dù ông cũng nghèo túng như những gia đình khác.
Ông có tầm vóc to
lớn hơn số đông dân làng Kon Kơ Xâm. Trong thời gian nầy, ông vào khoảng 40
tuổi, tuổi sung sức, chân tay rắn chắc. Ông nổi tiếng là người can đảm, dân
làng hơn một lần nhìn thấy ông dẫn đầu họ, xem thường hiểm nguy, một mình chống
lại nhiều quân địch [12]
Điều đáng quý của
ông là trung thực, rất công bình, ghét điều gian dối, hay giúp đỡ người khác.
Ông là một con người có tư chất tốt. Sống theo luật tự nhiên. Ngoài ra, ông còn
là một người trong sáng, hoại hiểm mới thấy được tại vùng người dân tộc.
Một ngày nọ, cha
Combes Bê giải thích về điều răn thứ sáu, đức trong sách trong giới tính, ông
cắt ngang lời cha, ông nói :
“Ô, thưa cha về
điểm nầy, từ lâu tôi đã biết điều gì được phép làm hay không được phép suy
tưởng. Khi xưa, lúc tôi còn là một thanh niên, và trên đường đi đâu đó, nếu tôi
gặp một cô gái, thì tôi quay mặt lại để khỏi nhìn cô ấy và khỏi có ước muốn xấu”
Ông rất khâm phục
đạo và với tư chất tốt, nên sống đời sống theo luật tự nhiên sâu sắc. Nhưng khi
ông biết tất cả những mê tín dị đoan mà ông đã thực hành từ trước không ăn hạp
với đạp, nên ông sợ hãi và chao đảo.
Sống với người vợ
phù thủy, ông thường thực hành những kỵ úy trong buôn làng, và luôn bị ám ảnh,
nếu bỏ phế một số tập tục phải giữ nào đó, chắc chắn sẽ chuộc lấy cái chết cho
chính mình hoặc cho người thân. Ông kinh hãi.
Cha Combes Bê
khôn ngoan chỉ vẽ ông cách thức giải thoát khỏi tâm trí những ám ảnh, những
ràng buộc của thế lực xấu, sự sợ hãi và vợ, Cha bảo ông:
« Ông hãy
cầu nguyện nhiều và xin Chúa thương xót ông ».
Ông nghe lời khuyên
đó ở đâu, nơi công cộng cũng nơi nơi riêng biệt một mình, sáng cũng như chiều,
ông làm dấu thánh giá và đọc kinh lớn tiếng những câu kinh mà ông đã thuộc,
không e ngại người khác bình phẩm. Ông không bao giờ bỏ mất cơ hội nói về Chúa
yêu thương về phán xét chung, về hỏa ngục…
Ông phải can đảm
và anh hùng lắm mới loại bỏ những ám ảnh, những mê tín, những lo sợ để chấp
nhận lòng tin vào tình yêu Thiên Chúa. Đời sống can đảm trước những hiểm nguy,
can đảm loại những mê tín, những kỵ úy khỏi cuộc sống của ông có ảnh hưởng tốt
đến công việc tòng giáo sau nầy của cả vùng.
Đúng năm ông trở
lại đạo (1853), mất mùa. Kon Kơ xâm và các vùng chung quanh chờ điểm báo tốt
rồi mới gieo hạt. Ông Hmur nghe theo lời cha khuyên nên gieo hạt bắp sớm. Mọi
người cho rằng thể nào thần (Yang) cũng sẽ phạt chết ông. Họ chờ xem nhưng mùa
thu bắp của ông đủ cho ông và cho những người khác thân khác. Ông vẫn mạnh
khỏe, gia đình ông sung túc. Họ thán phục và dân làng kính nể ông ảnh hưởng tốt
cho việc tòng giáo.
Ngày
28/12/1853. Ông Hmur lãnh nhận bí tích rửa tội
Ông được thử thách
khá lâu, cố gắng hết sức loại bỏ ý thưởng mê tín, nhưng chỉ có một phần thôi.
Ơn sủng của BT thanh tẩy sẽ tẩy sạch những cặn bã còn đọng lại. Trong ngày lễ
Thánh Tẩy của ông, có sự hiện diện của cha Dourisboure Ân, của hai tân tòng
người Sơdang là Giuse Ngui và Gioan Pat, đông đủ gia đình của ông, và cả dân
làng chứng kiến.
Trước khi lãnh
nhận bí tích, ông Hmur tay cầm bao đựng các linh vật, bước vào nhà cha Combes
Bê. Vừa vào nhà, ông ta xóc ngược cái bao, trút xuống các linh vật, gồm toàn là
đá sỏi trước sự kinh ngạc và lo sợ của dân làng.
Hôm sau, ngày
28/2/1853 ngày tốt đẹp nhất của ông Hmur và là ngày hạnh phúc hằng mơ ước của
Cha. Ông Hmur được thanh tẩy, tên thánh là Giuse. Sau giờ lãnh nhận nghi thứ
thanh tây, một hành động của người tín hữu đầu tiên nầy, làm một dấu chỉ công
khai và dứt khoát việc từ bỏ mọi ngẫu tượng, bằng cách ném tất cả linh vật của
gia đình xuống sông. Trong niềm hân hoan và nhẹ nhàng, ông thốt lên lời :
« Hỡi các
linh vật, hãy nói lời vĩnh biệt với tất cả mọi của cúng, vĩnh biệt gà, heo,
trâu ».
Mọi người lặng
thinh vì kinh ngạc. Em gái ông đã khóc lóc đau đớn vì thất bao nhiêu linh vật
của gia đình bị ném xuống sông, thời gian ân sủng chưa đến với cô em ông, người
vợ và đứa cháu của ông. Nhưng sẽ không lâu nữa, họ sẽ là những kitô hữu sốt
sắng, xứng đáng với người anh là ông Hmur.
5. - Dạy giáo lý
là phận vụ chính của Cha.
Suốt gần 4 năm sau
ngày ông Hmur tồng giáo, cha Combes Bê chuyên chú dạy giáo lý vào những lúc
thuận tiện, đặc biệt vào các buổi tối, sau khi dân làng đã làm nương rẫy cơm
nước xomg. Việc dạy giáo lý là niềm vui của Ngài.
Thật vậy, trưa
ngày 10/09/1857 cha Bảo từ Trung Châu đến Kon Kơ Xâm, đem lên một gói thơ trong
đó có những là gửi cho Ngài. Đức cha Cuénot gởi thơ cho Ngài, chỉ thị cho Ngài
trở về Trung Châu, vì Đức cha đã chọnNgài làm G.mục phó Ngài bị xúc động cả
ngày hôm đó, Ngài tỏ ra bực bội và khó ở. Đến chiều tối, vào giờ dạy giáo lý,
người ta hỏi Ngài có dạy như thường lệ không. Ngài trả lời : « Hãy cứ
đánh đi, để gọi các dự tòng đến, giảng dạy họ, không làm cho tôi mệt
đâu ». Các dự tòng đến ngồi chung quanh ngài, và với họ Ngài đã tỏ ra vui
vẻ và tươi cười.
Giờ dạy giáo lý
không kéo dài, Ngài cho dự tòng về sớm. Ngài cảm thất mệt, rồi cấm khẩu, có lẻ
bất tỉnh. Cha Bảo vừa kịp ban Bí tích cuối cùng, và ngài tắt hơi. Ngài qua đời
ngày 14/09/1857, còn quá trẻ 32 tuổi. Số giáo dân không nhiều, nhưng dân làng
vừa nghe tin, thông báo cho nhau ; khắp mọi nương rẫy, họ kéo vềm khóc
than người cha vừa qua đời. Việc chôn cất được tổ chức tươm tất theo nghi thức
của CH, dưới sự hiện diện của cha Dourisboure Ân, cha Verdier Xuân, cha Bảo,
các người nhà và dân làng. Từ lúc đó, Kon Kơ xâm không quên vị tông đồ nhiệt
thành và nhân ái của mình. Và đã nhiều năm sau, anh em dân tộc thường thường dễ
quên những xúc cảm, nhưng lại vẫn còn nhớ đến ngôi mộ của cha để cầu nguyện.
Mãi sau này, người ta vẫn con thấy một cụ bà thường đến nấm mộ, dù đã cải tàng
sửa lại cắm hoa và cầu nguyện. Giữa năm 1992, anh em tín hữu kinh cũng như dân
tộc tự động hướng về Kon Kơ Xâm vây qaunh nấm mồ của Ngài cầu nguyện như hành
hương về đất tổ, tưởng nhớ đến Vị Bề Trên thứ nhất của vùng truyền giáo đã an
nghỉ nơi đây. Sự hiện diện của Ngài giữa anh em Kon Kơ Xâm đã làm phát triển
hạt giống Tin Mừng cho toàn vùng Jơlơng.
CHA COMBES QUA ĐỜI VÀO NGÀY 14-9-1857 [14]
Trước kia, lúc
chúng tôi mới đến ở Kon KơLang, Cha Combes có nói:
“Ước gì trước
lúc chết, tôi được diễm phúc rửa tội cho 5 người lớn; hoặc ít nữa là giúp chuẩn
bị rửa tội cho 15 dự tòng, lúc đó tôi sẽ vui vẻ đọc kinh “Nunc dimittis”. (Giờ đây xin cho tôi tớ Chúa được về).
Thiên Chúa nhân
lành đã nhận lời ngài và còn ban hơn thế nữa. Không kể một đoàn đông đảo các
cháu nhỏ con cái lương dân mà ngài đã đưa về Thiên đàng, cùng 2 người già được
ngài giúp trở lại Đạo và đã rửa tội cho họ trong giờ sau hết, thì ngài đã ban
phép Rửa cho 34 người lớn, và tất cả không trừ ai, đều đã trở nên những Kitô
hữu tuyệt hảo. Ngài cũng sửa soạn cho 23 dự tòng có nhiều triển vọng trong tương
lai. Vâng phải, đã tới giờ đọc câu: “Nunc dimittis” và ra đi bình an. Và dường
như Thiên Chúa muốn chứng tỏ rõ ràng việc Người gọi Cha Combes về với Người chỉ
vì Người đã nhận lời cầu xin của Cha, cho nên Cha đã qua đời mà không mắc bệnh
hoạn gì cả, giữa lúc đang thi hành nhiệm vụ tông đồ là giảng dạy anh chị em dự
tòng.
Ngày 10-9, Cha
Verdier đi Kon KơXâm thăm người đồng nghiệp thân yêu của chúng tôi; cả hai cùng
ở với nhau trọn hai ngày. Ngày 14, lúc Cha Verdier sắp lên đường trở về Kon
Trang, Cha Bề trên đã nói với ngài:
“Hôm nay tôi thấy
không được khoẻ lắm, và vì người ta không biết việc gì có thể xảy ra, cho nên
tôi muốn xưng tội trước khi Cha đi về”. Ngài đã xưng tội, và cha Verdier nói
với ngài:
“Xem nào, nếu Cha
bệnh thì tôi ở lại với Cha. Không có gì cấp bách phải về cả, vì ở Kon Trang đã
có Cha Dourisboure ở với giáo dân của ngài rồi.
“Không, không,
không cần. Tôi chỉ muốn giữ đúng luật và dọn mình sẵn sàng cho mọi biến cố thế
thôi, Cha cứ việc lên đường. Tôi tưởng là không có việc gì đâu”. Và cả hai chia
tay nhau. Cũng ngày hôm đó, vào buổi trưa, có Cha Bảo từ Nam Bộ đến Kon Kơ Xâm,
đem lên một gói thư, thư từ Âu Châu hay từ các miền Truyền giáo khác, thư từ An
Nam nữa. Mỗi người trong chúng tôi đều có thư. Nhiều phong thư gởi cho Cha
Combes, trong đó có một bức thư của Đức cha Cuénot chỉ thị cho ngài trở xuống
Nam Bộ, vì Đức Cha muốn tấn phong ngài làm giám mục và đặt làm giám mục phó
(…). Tôi nghiêng về việc tin rằng là thư của Đức Cha đã gây một ấn tượng nặng
nề góp phần không nhỏ dẫn đến cái chết của Cha Combes. Cả ngày hôm đó, trái với
mọi khi, ngài tỏ ra buồn phiền. Đến chiều tối ngài vẫn dạy Giáo lý như thường
lệ, ngài nói “giảng dạy họ không làm tôi mêt đâu”, nhưng buổi học Giáo lý kéo
dài không được lâu, Cha Combes cho họ về và nói: “Hôm nay tạm đủ rồi; Cha thấy
trong người không được khoẻ”. Lúc dự tòng ra khỏi nhà thì ngài cảm thấy tự
nhiên yếu hẳn, rồi ngài quỵ xuống, bị cấm khẩu và có lẽ bất tỉnh. Cha Bảo hiện
ở đó vừa kịp làm phép xức dầu cho ngài, và Cha Combes đã về với Chúa (…).
Vừa nghe tin Cha
Combes mất, cả làng Kon KơXâm đâu đâu cũng nghe tiếng rên rỉ khóc than. Mặc dầu
mưa to, trong đêm tối, nhà của người chết chốc lát nên quá nhỏ bé để chứa dân
làng. Lúc đó là mùa lúa trổ bông, phần lớn dân làng đi canh rẫy, không có mặt ở
làng; người ta báo động, giục hết mọi trống, giống như những lần có tai hoạ lớn
vậy. Nghe tiếng chiêng trống báo động, những người giữ lúa gần xa đều bỏ rẫy
chạy về làng, và cả làng họp mặt đông đủ, vây quanh ngôi nhà người chết. Tất cả
mọi người, không phân biệt lương giáo đều thành tâm khóc thương nhà thừa sai;
xác Cha Combes được mặc phẩm phục linh mục và chôn cất với tất cả nghi lễ thông
thường (…). “Khi biết tin Cha Combes qua đời, tôi (Cha Dourisboure) lập tức lên
đường đi Kon KơXâm. Anh em Thượng đang chờ tôi, họ tiếp đón tôi rất chân tình,
thể hiện qua cử chỉ và thái độ, tha thiết chia buồn vối tôi. Đặc biệt các tân
tòng tội nghiệp, họ quấn quýt vây quanh tôi, cái chết của Cha Combes làm họ trở
thành côi cút. Khi tôi đến thì xác người quá cố đã được mặc phẩm phục linh mục,
và được đặt trong quan tài rồi, tôi đã cho chôn cất ngài với tất cả lễ nghi
thông thường. Từ lúc đó, Kon KơXâm không hề quên vị tông đồ của mình, sau nhiều
năm dài họ vẫn đến cầu nguyện trước ngôi mộ của Cha Combes”.
Một người chiến
sĩ Chúa Kitô nằm xuống, một người lính can trường khác đến thay: vất vả, nhưng
vẫn đứng trụ giữa cánh đồng truyền giáo đầy triển vọng, nhất là cần con người
chiến sĩ can trường chèo chống con thuyền Giáo Hội vùng truyền giáo Tây Nguyên
đang gặp thử thách: CHA DOURISBORE ÂN.
B- CHA DOURISBOURE
Vào ngày Giáo Hội
cử hành ngày sinh nhật Mẹ Thiên Chúa, một cuộc sống 40 năm lao động, thiếu thốn
và khổ đau đã chấm dứt trên trần gian và chúng ta tin rằng Thiên Chúa thưởng
cho cuộc sống ấy trên trời. Chính tại Nhà Quản lý ở Marseille, vài ngày sau khi
trở về, Cha Dourisboure, vị tông đồ nổi tiếng của người Thượng Bahnar, đã hoàn
tất sứ vụ của mình và nghỉ yên trong Chúa. Chúng ta mượn ở tuần báo Bayonne và ở cuốn kỷ yếu
về “tác phẩm của những người ra đi” (Bulletin de l’oeuvre des partants)
vài chi tiết về cuộc đời của nhà truyền giáo này.
Sinh ở Briscous
(Giáo phận Bayonne)
ngày 19-9-1825, trong một gia đình Công giáo đạo đức… Ngài hoàn tất những lớp
học đầu tiên về chức linh mục với hạng ưu ở Tiểu Chủng viện Larressore.
Về thể xác cũng
như về tinh thần, ngài có một diện mạo sáng sủa và rất hiếm khi các bạn học của
ngài thời đó có ý chê bai tinh thần cởi mở, tính trung thực, thẳng thắn của
ngài, cũng sự hào hiệp, hăng say tràn trề mà ngài mang đến bất cứ đâu trong
công việc cũng như trong lúc vui chơi. Họ thuật lại nhiều về niềm tin sống động
của ngài, tình thương xót sâu xa và ước muốn làm điều thiện của ngài. Tương lai
truyền giáo đã được bộc lộ nơi người chủng sinh trẻ. Đây là điều chính ngài đã
nói về những tình cảm lúc ấy trong một quyển sách ngài viết theo lệnh của giám
mục 20 năm sau.
Tôi còn nhớ những
năm tháng khi tôi còn ở Tiểu Chủng viện Larressore. Lúc ấy tôi chỉ là một học
sinh trẻ lớp đệ tam (lớp 10). Nhưng người ta đọc được nơi phòng ăn tập thể
những dòng chữ của M. Michel viết trong từ nhà tù Huế rằng: “Ôi chao! Tôi
không còn thấy thèm ăn miếng bánh tôi cầm trên tay. Tôi không nghe, không đọc
được nữa và trong sâu thẳm tâm hồn tôi, tôi thích thú nghe một tiếng nói nào đó
bảo tôi! Và con cũng thế, con cũng sẽ là một nhà truyền giáo. Điều đó đã xảy ra
hơn hai mươi năm sau, và khi nhớ lại kỷ niệm này, nước mắt tôi lại trào ra”.
“Người chủng
sinh trẻ tuổi này tận dụng tối đa những khát khao cao cả này. Những ai biết cậu
vào thời đó vẫn nhớ về lòng sùng kính đặc biệt sống động của cậu đối với Bí tích
Thánh Thể. Sự nhiệt tình của cậu được thấy rõ dưới chân bàn thờ, và cậu thường
nói với các bạn học về tình yêu đối với Mình Thánh Chúa Giêsu. Bí tích Thánh
Thể là đối tượng tôn kính của cả cuộc đời cậu; nơi đó chính là bí mật sức mạnh
của cậu giữa những thử thách cam go nhất, nơi đó chính là lò nung nấu cho lòng
hăng say của cậu. Cậu xem mọi cực khổ chẳng là gì cả khi mỗi sáng cậu bước lên
bàn thánh”. Về vấn đề sự chết, ngài tin tưởng: “Trong căn bệnh của tôi,
điều làm tôi đâu khổ nhất và cũng là điều tôi thực sự nuối tiếc, đó chính là sự
thiếu thốn mà tôi đã chịu đựng rất lâu là không thể cử hành hy tế thánh”.
Về lòng yêu mến
Bí tích Thánh Thể, như một sự bổ sung tự nhiên, ngài kết hiệp lòng sùng kính
trìu mến và tin tưởng vào Đức Maria, Đấng mà ngài luôn tin là ngài đã được
những ân huệ đặt biệt. Những ơn mà ngài vui sướng tuyên xưng.
Sau một năm ở Đại
Chủng viện Bayonne,
năm 1846, người chủng sinh hăng say lên đường đi chủng viện thừa sai ngoại
quốc. Ngài ở đó 3 năm.
Được gởi qua Đông
Dương, ngài được chỉ định vào một sứ vụ mới mà Đức Giám mục Cuénot muốn lập nên
nơi người Thượng, tức là những người miền núi đã làm nên đường phân thuỷ giữa
sông Mêkông và biển.
“Vào năm trước,
có hai linh mục, Cha Combes và Cha Fontaine, đã thâm nhập vào miền hẻo lánh này,
Cha Dourisboure sẽ gặp lại họ.
15 năm sau, ngài
nhận lệnh kể chuyện về sứ vụ của ngài. Trước tiên, ngài xin hỏi rằng ngài có
thể viết ra không? Và ngài hỏi ai dám liều mình đọc quyển sách của vị linh mục
nghèo, người đã khiêm tốn đặt dưới ngòi bút của mình một thứ ngôn ngữ hoang sơ
thay vì một thứ tiếng Pháp chính xác và văn vẻ như người ta đòi hỏi không? Đức
Giám mục đồng ý, vị thừa sai ra đi và viết nên một tập sách nhỏ với nhan đề: “Dân
Làng Hồ”, một sự hoà quyện những câu chuyện cảm động, những hành động anh
hùng mà một nhà thơ có thể xen vào trong vàng và kim cương.
Tất cả những ai
đã có cơ hội đọc nó đều thán phục nó, và tôi biết không phải là ít người đã đọc
cả trăm trang sách ấy trong tư thế quỳ gối, nước mắt lưng tròng và kết thúc
quyển sách bằng lời cầu nguyện sốt sắng nhất.
Chính từ quyển
sách này mà chúng ta rút ra để phác hoạ những công việc của Cha Dourisboure. Từ
đó về sau, từ sau cái chết của ngài, các bạn hữu của ngài không viết gì cho
chúng ta cả. Họ lấy làm hài lòng là đã làm nên một câu chuyện mà không kể lại
nó. Được Thiên Chúa biết đến thôi là đủ cho họ rồi.
Cha Dourisboure
lên đường vào ngày 11-11-1850 khi màn đêm buông xuống. Cùng đi với ngài có một
vị thừa sai già, người mà ngài đã vẽ nên một bức chân dung đáng yêu nhất, một
trong những tạo vật thiên nhiên đặc biệt mà một cách nào đó đã thể hiện một đức
hạnh, một phẩm chất nào đó. Đó là Cha Desgouts, một linh mục rất tốt lành với
mọi người và trong mọi sự, đến nỗi người ta chỉ có thể gọi ngài là Cha Desgouts
tốt lành.
Sự hấp dẫn và an
toàn trên đường họ đi được định nghĩa trong quyển “Cẩm nang của các thừa sai
đầu tiên”: “Tôi không biết con đường nào khó khăn hơn, nhưng hổ và voi
thương tôi hơn là những người anh em chúng tôi”.
Sau 5 tuần viễn
du, họ đến nhà các Cha Combes và Fontaine, và dưới mắt họ, như lời đầu tiên của
Cha Dourisboure: “Cha Combes ơi, làm sao mà Cha có thể ở được”.
Chao ôi! Bản thân
ngài còn đứng được nhưng cũng đã vướng phải nữ hoàng độc ác của vùng hoang dã,
đó là sốt rét rừng; còn Cha Fontaine thì đã nằm kiệt sức trên chiếc chiếu mà từ
đó ngài không còn phải trỗi dậy để trở về Đông Dương nữa.
Họ không quy phục
được ai theo đạo, không làng nào đón nhận họ, họ bị đối xử như các tù nhân,
hoặc ít ra là như những kẻ khả nghi.
Và qua 1 năm, họ
ở đó trong một cái chòi bằng lá mà chính họ dựng nên. Trong lúc run lập cập vì
sốt rét và không có một loại thức ăn nào khác ngoài gạo, cây cỏ, những rễ cây
mà họ vất vả tìm kiếm trong rừng. Họ trung thành ở đó và lẽ ra cuối cùng Thiên
Chúa chấp thuận thử thách của họ nhưng ngược lại Thiên Chúa đã để họ phải chết.
Rất xúc động về
những câu chuyện này rất mạnh mẽ và dẻo dai, mang trong tim ước mơ đẹp, rất dễ
dàng đối với tuổi trẻ và sức mạnh, Cha Dourisboure thả mình trong vòng tay bè
bạn, thì thầm lời thơ thanh tao và cảm động cùng với một nụ cười trên môi.
“Chúng ta cùng
chịu đau khổ và chúng ta sẽ ít đau khổ hơn”.
Tuy vậy, những
đau khổ này rất dữ dội, dù là chịu đựng chung với nhau, ở cổng làng Kơlang nhỏ
bé và không có một lời kể nào có giá trị hơn lời kể được viết rất nhẹ nhàng này.
(trích từ kỷ yếu “tác phẩm những người ra đi”).
“Thường thường,
chúng tôi mỗi người nằm dài trên chiếu của mình, nơi bốn góc một lò sưởi được
đào giữa căn lều. Những người mà cơn sốt tóm được đang đánh nhau với nó “trong
khả năng của họ”: những người khác thì thư giãn một chút, cầu nguyện, cười
đùa, hát thánh vịnh, nói chuyện hoặc hút thuốc tẩu. Vào ban ngày, những người
được cơn sốt để cho nghỉ ngơi một chút thì đi tìm măng tre, cây dương sỉ non
hoặc các loại rau khác có thể ăn được ở trong rừng; trở về nơi ở, họ cho chúng
vào nấu trong một nồi đất để dùng làm gia vị cho cơm là món ăn duy nhất. Vào
một ngày lễ, một trong những người Kinh của chúng tôi bắt được một con cá to.
Đây là một biến cố. Cha Combes, ở cương vị bề trên, chia nó ra làm 4 phần đều nhau,
và mỗi chúng tôi trang trọng đặt một chút cá vào trong tô cơm của mình. Ngược
lại, chúng tôi đã quyết định nhịn ăn hoàn toàn, trừ người nấu cơm, tất cả đều
đang bệnh mà.
Và lời cuối
cho sự can đảm lớn này, cho sự kiên nhẫn rất anh hùng này, lời lặp lại không
ngừng dưới hình thức này hay hình thức khác, như một điệp khúc được mỗi nhịp
tim hát lên:
“Khổ đau
của chúng ta là những đau khổ rất yêu dấu, bởi vì Đức Giêsu đã xức thơm cho
chúng bằng một sự trìu mến lớn lao”.
Tuy thế, hàng
tuần hàng tháng trôi qua mà tình hình không thay đổi. Ít bị suy nhược hơn các
bạn đồng hành, Cha Dourisboure cùng đi với Cha Combes khám phá vùng đất mới
này. Họ đã thành công khi tìm được một miếng đất nhỏ ở Kon Kơxâm, ở Rơhai. Họ
mua một căn nhà với giá 5 phơ-răng, sau đó họ tìm một người bảo vệ, một già
làng tên là Hmur, người mà hơn một lần đã dùng quyền của mình để ngăn cản việc
trục xuất họ hoặc để cứu họ.
Thế là họ bắt đầu
khai phá rừng. Sau đó, theo lệnh của Đức Giám mục Cuénot, Cha Dourisboure đi
thành lập nơi bộ tộc người Sêđang ở Kontrang một trung tâm buôn bán giữa người
Rơngao, Sêđang và người Lào.
Niềm vui đầu tiên
của ngài là làm phép rửa cho một em nhỏ. Đó là vào ngày 1-1-1852, trong lúc
buồn chán, thấy tinh thần suy sụp, và cảm thấy thập giá có vẻ nặng hơn, ngài
thấy nhiều người Thượng cùng chạy vội về một chỗ, ngài hỏi họ cái gì khiến họ
tò mò thế. Người ta trả lời cho ngài biết là có một đứa trẻ sắp chết. Nhanh như
có sẵn trong đầu, ngài lấy ngay một bình đầy nước và chạy đến làm phép rửa cho
đứa bé đang hấp hối. Và ngay lập tức, tâm hồn ngài như muốn hát lên, phát ra
một âm thanh hân hoan, ngài xót thương những người có cuộc sống không được như
cuộc sống của ngài. Ôi, con vui sướng Chúa ơi, quả là một sự ngọt ngào tuyệt
diệu Chúa làm lan toả trong lòng nhân loại, thật hừng hực và rực rỡ ánh sáng
Chúa chiếu toả và tăng thêm sức mạnh cho nhân loại!
Tuy nhiên, điều
đó cũng không là và cũng không thể là niềm hạnh phúc lớn nhất của một nhà
truyền giáo.
Một phép rửa cho
một đứa trẻ không làm nên một giáo đoàn Kitô. Những biến chuyển nơi con người
mới là cần thiết. Đó chính là mục đích được đeo đuổi với rất nhiều khó khăn.
Mục đích này đạt được vào ngày 16-10-1853. Ngày này có thể được xem như ngày
thành lập việc truyền giáo cho người Thượng, Cha Dourisboure làm phép rửa cho 2
tân tòng đầu tiên của ngài, họ là 2 bạn trẻ tên là Giuse Ngui và Gioan Pat.
3 năm trôi qua từ
khi ngài đến quê hương miền Thượng. Trong 3 năm này, ngài đã làm phép rửa cho 2
người ngoại, 2 tháng sau, Cha Combes làm phép rửa cho 1 người nữa là Hmur, già
làng Kon Kơxâm. Các giáo hội được khai sinh như thế: khó khăn và chậm chạp,
chịu đựng, như mọi sự thay đổi, quy luật của chuẩn bị; như mọi sự khai sinh,
quy luật của đau khổ.
Tôi không ngạc
nhiên tí nào về những ai biết được những lao nhọc của việc tông đồ khi nói rằng
“cái khó khăn nhất đã được làm rồi”. Tìm cho được 100 tân tòng trong khi
người ta mới chỉ có 10 người là một công việc gian khổ. Tìm được người đầu tiên
trong họ là công việc vất vả cực kỳ. Truyền giáo là một công việc sáng tạo. Tài
năng không thôi thì chưa đủ, cần có sự thánh thiện, và sự thánh thiện chỉ có
thể là hoa trái của những gian khổ và những cuộc đấu tranh liên lỉ.
Có phải điều này
muốn nói rằng mọi sự sẽ trở nên dễ dàng nếu có được những điều trên? Chắc chắn
là không. Cha Dourisboure còn phải trải qua biết bao thời điểm đen tối và phải
chịu những cuộc tấn công thô bạo.
Mối ngờ vực của
người Thượng chỉ giảm đi một cách chậm chạp. Các vị thừa sai gặp phải hầu như ở
khắp nơi một sự chống đối dai dẳng như ban đầu. Thật hoài công khi họ tỏ ra nhã
nhặn và không phản kháng; cũng hoài công khi họ thuyết phục kẻ vu khống, và
cũng thật hoài công khi họ cho người ta gạo, tiền vào thời đói kém. Không có gì
soi sáng tinh thần cũng như không có gì xoa dịu được những con tim.
Trong cuộc chạy
đua tìm kiếm các tâm hồn, Cha Dourisboure được đặt vào cùng một sự nhọc
nhằn như những vị khác.
Một ngày, ngài
bắt đầu đi xa. Ngài đi từ sáng, đi trong những bụi cỏ lớn, trong vùng sình lầy.
Đến 5 giờ chiều, trên đường đi, ngài thấy đói, khát, mà chẳng tìm thấy một con
suối, cũng không có lấy một hạt gạo hay hạt ngô nào cả. Cuối cùng, ngài thấy
một túp lều của một gia đình Thượng, ngài tiến lại gần và khiêm tốn xin một ly
nước.
Một người phụ nữ
xuất hiện nơi ngưỡng cửa và từ chối ngay lập tức và đuổi ngài đi bằng một thái
độ hăm doạ.
Vị thừa sai cúi
đầu và tiếp tục lên đường.
Cơn sốt bắt đầu
trở lại, đôi chân run lên không cho ngài đi nữa. Ngài bị lạc đường. Muốn thử
leo lên một thân cây để định hướng, ngài không đủ sức nữa. Dừng lại để lấy hơi
và lắng nghe. Không có gì cả. Không một tiếng động có thể giúp ngài biết có con
người để mà định hướng. Khắp nơi bao trùm một sự im lặng tuyệt đối của rừng
rậm. Chỉ có tiếng rơi của những chiếc lá, tiếng những con cu gáy gù lên lời
kinh chiều của chúng phá tan đi sự im lặng ấy. Đêm đến, sổ nhật ký của ngài ghi
lại những dòng này, những dòng chữ mà dường như lòng sùng kính và đầy rung cảm
của vị tông đồ này đã mượn nơi Thánh Phanxicô Atxidi: “Bên cạnh tôi có một thân
cây bật gốc nằm rạp xuống đất, tôi ngồi sát bên nó. Tôi nghĩ nếu mình có một tí
lửa để hong khô quần áo và tránh cho cơ thể đang bị đóng băng bằng những giọt
mồ hôi. Ôi, Chúa ơi, Chúa ơi, nếu con có một ít lửa! Trong cái gùi của tôi có
một quyển sách Kinh Nhật Tụng, một cái tẩu thuốc, một hộp diêm và một miếng bùi
nhùi nhỏ để mồi lửa. Tôi cẩn thận nhặt vài chiếc lá khô, vo nhỏ chúng lại và
run lên vì không thành công, bởi tôi còn là một kẻ mới học nghề. Tôi bật diêm,
miếng bùi nhùi bắt lửa, nhưng nó quá nhỏ đến mức bị cháy rụi trước khi bắt lửa
với những chiếc lá. Với que diêm cuối cùng, niềm hy vọng của tôi cũng tắt ngấm.
Khi ấy, tôi thấy mình thiếu thốn tất cả, tôi không biết niềm vui siêu nhiên lớn
lao nào chiếm lấy con người tôi nữa. Không thể kìm hãm được niềm hạnh phúc của mình,
tôi rửa mình và bắt đầu hát với tất cả sức lực của mình:
Chúng ta hãy chúc
tụng Chúa đến muôn đời vì những ân huệ Ngài ban! Và tiếng vang lặp lại bên tai:
‘… đến muôn đời… vì những ân huệ Ngài ban’. Tôi mời tất cả các bạn đồng
hành của tôi trong rừng sâu, tức là những sinh vật hoang dã, cùng với tôi ca
khen Thiên Chúa vì lòng thương xót của Ngài tồn tại đến muôn đời. Ôi Chúa ơi,
con lặp lại nhiều lần trong cảnh thiếu thốn này, ‘Ngài có nhận con là thừa
sai của Ngài không?’”
Giữa những đau
khổ mà chúng ta có thể phác hoạ, trong những năm tháng trôi qua, tất cả những
người bạn của ngài đều chết đi hoặc là trở lại miền Xuôi để rồi không bao giờ
trở về nữa. Ngài không có ai ở với ngài nữa ngoại trừ một linh mục người Kinh.
Dầu sao đi nữa, ngài vẫn không nản lòng.
Ngài cưu mang một
chương trình truyền giáo mới, đơn giản và dễ thực hiện, có thể là không phù hợp
với người Kinh, nhưng lại rất phù hợp với người Bahnar.
Chương trình này
chỉ có một dòng chữ: thiết lập những ngôi làng toàn tòng. Cha Dourisboure bắt
đầu thực hiện chương trình này vào năm 1865.
Tập họp các con
chiên sống rải rác giữa những buôn làng có người lương sinh sống, ngài dẫn họ
đến một vùng đất được chọn lựa kỹ, định cư họ ở đó, cung cấp cuốc, cày, trâu
bò, hạt giống cho họ, dạy họ cách thức trồng cấy, chăm sóc ruộng nương, buộc họ
phải dự trữ lương thực cho những ngày đói kém. Tóm lại là ngài khai hoá họ,
đồng thời với việc Kitô hữu hoá họ dần dần.
Chương trình
thành công. Từ đó, ngài gây ảnh hưởng và được gán cho tước hiệu “nhà sáng
lập hội thừa sai Bahnar”.
Nhưng để đánh giá
giá trị của một con người, biết những gì người ấy làm thôi thì chưa đủ, cần
thiết phải biết người ấy làm điều ấy với cái gì. Cha Dourisboure truyền giáo
cho người Thượng, tức là những đứa trẻ to xác, những kẻ hồ nghi, có óc thù hằn,
nhẹ dạ, hay thay đổi, kiêu căng… từ một sự ngu dốt tuyệt đối, một nền văn hoá
tri thức trống rỗng.
Để áp đặt lên họ,
để họ tin vào lời ngài, ngài có được một ơn hiếm có và cao vời, đó là ý chí
kiên vững. Vũ khí của ngài là khí phách kiên cường, nhưng ngài có được bao
nhiêu khí phách ấy?
Tuy nhiên, ý chí
không phải là bí quyết thành công cuối cùng của ngài. Phải thêm vào đó thể chất
vạm vỡ của ngài có thể chịu đựng những căn bệnh mà những người khác phải chết
vì nó.
Khi ấy, nếu ngài
không ngã gục thì ngài đã thấy hoạt động của mình bị tê liệt và khó khăn thêm
chất chồng. Thường thường, bệnh sốt rét rừng hành hạ ngài trong suốt chuyến đi
và thúc đẩy ngài chờ đợi đoạn kết của cuộc khủng hoảng hoặc là cái chết, trong
khi sự cứu giúp về nhân lực thì quá xa vời. Nhiều lần khác, căn bệnh bắt ngài
nằm liệt trong túp lều ngài ở cùng với Cha Besombes vừa mới đến. Và đến một
ngày, cả hai vị truyền giáo, sau khi đã giúp nhau lãnh Bí tích Hoà Giải và phép
xức dầu, đều lần lượt lăn ra bất tỉnh.
Đây thực sự không
phải là tột cùng của đau khổ và bị bỏ rơi sao?
Sự vĩ đại mang
tính khắc khổ của cảnh này như xem thường mọi sự miêu tả. Cảnh này có thể gợi
ra cho một hoạ sĩ để hoạ sĩ ấy vẽ nó với 2 tình cảm kinh hoàng và thán phục.
Hai người Pháp,
hai linh mục còn trẻ, xanh xao, hốc hác, đang hấp hối, dựa vào nhau để trao ban
cho nhau lời xá tội cuối cùng. Xung quanh họ, những người Thượng câm lặng, ngạc
nhiên trước cái chết của hai người ngoại quốc có thể được tôn kính hoặc bị ghét
bỏ, những người luôn bị nghi ngờ và sống ẩn sau lớp lưới của túp lều tranh tre.
Hình ảnh đó giải thích một bức hoạ, đúng hơn là soi chiếu cho một bức tranh về
sự hy sinh thập giá của các vị thừa sai.
Chắc chắn đây
không phải là hình thức tử đạo mà 20 năm về trước được Cha Dourisboure đã mơ
ước, nhưng đây chính là cách tử đạo không gây ồn ào, không một xu dính túi,
không bị tra tấn và đổ máu. Tuy vậy, đây là hình thức tử đạo mà người tử đạo
phải chịu không ít đau khổ trong một thời gian dài.
Sau hết, vị tử
đạo này đã tiêu hao hết khí chất mạnh mẽ của một người miền núi Pyrênê và Đức
Giám mục Charbonnier đã lệnh cho ngài phải trở về Pháp để nghỉ ngơi hồi sức.
Thời ấy, những
người có phúc gặp ngài và trò chuyện với ngài đề lưu giữ kỷ niệm sống động về
vị tông đồ đạo đức và can đảm của người Bahnar, người mà đau khổ không thể làm
mất đi sự vui tươi và nghị lực.
Người ta được lợi
gì khi nghe ngài kể về những niềm vui và hiểm hoạ của ngài, và bằng cách nhấn
mạnh về nỗi u buồn nào, ngài nói đi nói lại về cái chết của những người cùng
chiến đấu với ngài, bởi tất cả họ đã ra đi: Arnoux, Desgouts, Fontaine,
Verdier, Suchet, Besombes đã chết, và người tuyệt vời nhất là Cha Combes cũng
đã ra đi. Người ta kêu gọi một lực lượng ưu tú vào giờ phút cuối của một chiến
thắng mang nhiều chết chóc. Chỉ một mình Cha Dourisboure còn sót lại. “Thiên
Chúa đã ban cho ngài được sống lâu, đó chính là ân huệ của Thiên Chúa, Đức Hồng
y Piô nói như thế”.
Ngài ở lại Pháp
khoảng 1 năm và sẽ tiếp tục công trình của ngài.
15 năm trôi qua,
chúng tôi không kể về những năm tháng ấy. Dường như những năm tháng ấy là
khoảng thời gian đẹp nhất, có ít đau khổ mà lại sinh sôi nảy nở nhiều. Khoảng
1.000 người Thượng gia nhập Đạo. Vị thừa sai già yếu của họ trở nên vị thủ lãnh
vĩ đại, như là vua của họ, xét xử các kiện cáo, ngăn cản chiến tranh, lập thôn
làng, quy định luật lệ.
Năm 1885, ngài
hoàn toàn kiệt sức, không còn sức lực để đi truyền giáo nữa, ngài phải chịu
muôn vàn vất vả của cuộc đời người tông đồ; ngài được gọi về miền xuôi và được
cắt đặt làm bề trên đại chủng viện. Công việc quá nhiều so với sức khoẻ yếu kém
của Ngài. Ngài đi viện bài lao Hông Kông. Nơi đó, ngài hoàn tất việc soạn thảo
và cho in quyển từ điển Bahnar, một công trình đòi hỏi một nghị lực lớn.
Luôn bị bệnh tật
đè nặng, ngài được gởi đi Pháp. Đây là giai đoạn cuối của cuộc đời ngài. Ngài
chết khi đang trên đường đến Marseille với tuổi đời 65, 41 năm linh mục và tông
đồ.
Dưới cái nhìn của
con người, thì con người là vĩ đại trong phạm vi những gì con người tạo nên.
Trong khi công trình của ngài mang tính thiêng liêng, vượt trên con người, thì
sự vĩ đại của nó được đánh giá bằng tất cả sự cao vời như khoảng cách giữa đất
với trời vậy. Cha Dourisboure trong khi còn là con người, ngài đã làm một công
trình vượt trên con người, một công trình thần thánh.
C. CHA GUERLACH
Cha Gioan Baotixita
Maria Guerlach sinh ngày 14-7-1858, tại Metz
(Moselle), thuộc Giáo xứ Saint Martin. Ngài
học tiểu học ở trường làng. Sau khi người Đức xâm chiếm một phần lớn miền Lorraine trong cuộc
chiến 1870, ngài đã đến học tại viện Saint Pierre Fourier ở Lunéville. Ngài
không ghi danh học Y khoa ở Paris, như người ta lầm tưởng, nhưng vì lòng ao ước
tận hiến đời mình cho sứ vụ tông đồ, nên ngài đã vào Chủng viện Xuân Bích, và ở
đây được 2 năm, lãnh nhận các chức nhỏ. Ngày 6-9-1879, ngài đến học tại chủng
viện của Hội Thừa sai Paris.
Chịu chức linh mục ngày 4-3-1882. Lên đường sang Địa phận Đông Đàng Trong vào
ngày 12-4 cùng năm.
Trong thời gian 5
tháng ở Xoài học tiếng Việt, ngài có ý tưởng tốt là chép lại cuốn từ điển
Bahnar của Cha Dourisboure, mà nếu không chép lại thì đã mất hết vào năm 1855
rồi.
Cuối năm 1882,
ngài được sai lên miền truyền giáo Thượng và được chỉ định ở Pơlei Jơdreh.
Chẳng bao lâu,
ngài trở nên người có uy thế; mặc dù ngài không phải là bề trên nhưng ngài lại
có ảnh hưởng lớn trên các bổn đạo và trên các lương dân. Chính nhờ ngài mà sự
phát triển của miền truyền giáo này, được gieo trồng từ hơn 30 năm nay, trở nên
lớn mạnh.
Vào năm 1885, khi
đó cuộc bách hại đạo đã làm mất đi cơ hội cho cuộc xâm chiếm Bắc kỳ của Pháp,
thì ngài tổ chức bảo vệ những người Thượng có đạo. Ngài dẫn đầu đoàn người tham
chiến đến tận biên giới vùng đất của người Việt và khiến một quan chức đang
dung nạp những bộ lạc người Jarai chống lại việc truyền giáo phải trốn chạy.
Vào năm 1887, bị
những bộ lạc Jơrai này cùng với một nhà thám hiểm người Pháp, là trung uý Metz,
cướp phá, nên ngài chấp nhận kế hoạch chấm dứt nạn cướp bóc này, cũng như
chấm dứt những cuộc đánh nhau liên tục giữa các buôn làng với nhau. Ngài đã
thành công hoàn toàn khi chinh phạt chống lại những người Jơrai. Vào năm 1888,
theo những lời giới thiệu chính thức, ngài sẵn sàng trợ giúp cho ông vua
Mayréna; nhưng khi ngài biết rằng vị vua này không được nước Pháp công nhận,
nên ngài ngưng việc trợ giúp. Bị tố cáo là phản bội trong sự việc này, ngài
phải tự biện hộ mình trước Rheinart, viên toàn quyền Đông Dương, và trước viên
chức, kẻ tố cáo ngài, đã bị cách chức.
Vào năm 1890,
ngài được bổ nhiệm làm bề trên tạm thời miền Thượng. Năm tiếp theo, ngài giúp
đỡ những sĩ quan của đoàn Pavie với hết khả năng quyền hạn của ngài. Ngài hướng
dẫn, làm thông dịch cho họ và tiếp đãi nơi ăn chốn ở lâu dài. Một ít lâu sau
đó, ngài cũng phục vụ cho các sĩ quan của những đội quân được phái đến để ngặn
chặn quân Xiêm xâm chiếm. Cùng thời gian đó, ngài làm việc tích cực để hoán cải
lương dân và thu được nhiều kết quả hơn những vị tiền nhiệm: từ năm 1888 đến
năm 1894, ngài đã dạy dỗ và rửa tội hơn 1.200 tân tòng.
Khi sắp mãn nhiệm
kỳ bề trên tạm thời, ngài nhận nhiệm sở Pơlei Maria. Trong khi cơn dịch bệnh
đậu mùa năm 1895 đang hoành hành khắp miền, thì ngài đã tiêm chủng vácxin hơn
7.000 người. Về Pháp năm 1896 để nghỉ ngơi dưỡng sức, ngài tham dự nhiều cuộc
gặp mặt để cố gắng thu hút sự quan tâm của các thính giả cho miền truyền giáo.
Sau khi quay lại Kontum, ngài phụ trách địa sở Plei Rơhai, gồm có 1.500 bổn
đạo, và ngài bắt đầu xây dựng nhà thờ. Tiếp đến, ngài được bổ nhiệm coi địa sở
Pơkei, nhưng trú ngụ ở Kon Xơnglok.
Vào năm 1903, quá
mệt nhọc ở trong xứ Thượng, ngài được giao phó coi sóc xứ đạo Tourane
và cộng đoàn ở nhà thương quân sự của thành phố này; ngài cũng chiếm được cảm
tình của người Âu châu nơi đây. Các nữ tu Phaolô thành Chartres bị đuổi khỏi
nhà thương, nên ngài cho các nữ tu dùng những căn nhà xây để trú ngụ và giúp đỡ
các nữ tu thành lập một trường học và trường nữ công; ngài cũng đặt móng xây
một ngôi nhà thờ to lớn, vững chắc. Vào năm 1906, bởi do một cuốn sách “Tác
phẩm hão huyền”, ngài đã đáp trả một cách vẻ vang cho hàng loạt những tấn công
được công bố trên báo chí và được ghi trong một tập sách của Camille Paris có
tựa đề “Những nhà truyền giáo miền Á Châu, Tác phẩm hão huyền của các ngài”.
Vào năm 1908,
ngài trở lại miền Thượng và nhận lại nhiệm sở cũ, là Plei Rơhai. Năm 1909, sau
cái chết của Cha Vialleton, ngài được bổ nhiệm làm Đại diện Giám mục và bề trên
miền Thượng; ngài ở tại Kontum. Ngài dùng ảnh hưởng của mình khiến cho chính
quyền Pháp chấp nhận những người Thượng, là những con người không có hiểu,
không tận hưởng mọi chính sách của nhà nước. Ngài qua đời tại Kontum vào
ngày 29-1-1912, sau 30 năm sống đời mục vụ tông đồ, với bao công việc, bao
thành công và phục vụ tổ quốc. Khi ngài qua đời, miền truyền giáo đã phát triển
với con số: 120 giáo điểm, 11.645 tín hữu sống đạo, 5.000 dự tòng. Những lá thư
mà ngài đã công bố thì rất nhiều và hữu ích. Phần thư từ còn lại chưa được công
bố thì nhiều, rất đáng kể và chứa nhiều điều thú vị.
V. THỐNG KÊ VỀ
ĐỊA SỞ KON-MAH
Trung tâm Truyền
giáo Kon Kơxâm không tồn tại lâu sau khi Cha Bề trên tiên khởi đại diện cho Đức
cha Cuénot Thể trên vùng Truyền giáo Tây Nguyên qua đời ngày 14-9-1857.
Trong năm 1913,
địa sở có 916 giáo dân toàn tòng.
Trong năm 1946,
địa sở có 720 giáo dân[15].
Trong năm 1948,
địa sở gồm 693 giáo dân dân tộc và 6 giáo dân kinh gồm 8 họ đạo[16].
Sau nạn Văn Thân,
Kon Kơxâm vẫn là một trong những trung tâm cơ sở truyền giáo tồn tại:
Bản đồ 1889 của Cha Adrien Launay
H. Các
Tơring người Bahnars Jơlơng (Echos năm 1937)
Từ năm 1975, các
cha sở Nhà thờ Chính toà phụ trách anh em dân tộc vùng Jơlơng.
Đến ngày
27-12-2006, Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục Giáo phận, chính thức bổ
nhiệm Cha Antôn Padua Nguyễn Văn Binh làm chánh xứ.
PHẦN
KẾT
Từ thị xã Kontum
đến Trà Quỳnh: 14 km
Từ Trà Quỳnh đến
Kon Sơlăng: 17 km
Từ Kon
Sơlăng đến Kon Sơlal: hơn 3 km
Từ Kon Sơlal đến
Kon Kơxâm: 14 km
Xã Hà Tây thuộc
Huyện Chư Pah có tất cả 9 làng, tính từ đường quốc lộ vào Kon Kơxâm như sau:
1 – Kon Sơlăng.
Làng này kỳ cựu, được thành lập từ năm 1857 thời cha Bảo (linh mục Bản xứ) và
Cha Desombes Kính (1866-1867).
2 – Kon Băh. Làng
này nay dời về xã Hà Tây; những trước kia nằm trong sâu nội địa tòng giáo ngày
31-10-1890 đồng thời với Kon Mah.
3 - Kon
Pơnăng tòng giáo năm 1858 vào thời Cha Dourisboure, bỏ đạo năm 1873 và trở lại
đạo 30-1-1889. Thời kỳ đầu cũng nằm sâu nội địa.
4 – Kon Chang,
tòng giáo 8-7-1893, thời kỳ Cha Guerlach (1893-1896).
5 – Kon Hơngleh.
6 – Kon Măh tòng
giáo ngày 31-10-1890.
7 – Kon Sơlal,
tòan tòng, có 480 tín hữu.
8 – Kon Kơmo,
tòng giáo tháng 11-1893 thời Cha Guerkach.
9 – Kon Sơbai,
trước kia vào năm 1911 trực thuộc địa sở Kon Mahar, tòng giáo ngày 4-6-1893.
Số giáo dân trên
3.000 người. Riêng Kon Sơlal là 480 người. Ngôi nhà thờ sắp xây dựng thuộc Kon
Pơnang.
Tất cả 9 làng này
đã dời cư ra phía gần đường cái lộ, để nhường chỗ cho nông trường cây cao su.
Hiện nay nông trường cao su trồng được trên 2.000 ha, cây tuổi 4-5 năm.
KON KƠXÂM nay thuộc thôn KON BĂH, xã Hà Tây, huyện Chư Băh, tỉnh Gialai, có 2
hộ còn sinh sống tại mảnh vườn trước kia các cha thừa sai đến tá túc vào năm
1851 và Cha Bề trên Combes Bê đã xây dựng “CƠ SỞ TRUYỀN GIÁO ĐỨC MẸ GIẢI
CỨU”. Tại nơi đây, còn gia đình ông bà cụ: Petrô Dyik hiện nay trên 70
tuổi và bà Maria Hyer, trên 68 tuổi. Theo lời ông Petrô Dyik kể lại khi ông lên
10 tuổi (khoảng năm 1946), cha ông là A. Nơr ngủ mơ thấy có người báo mộng hãy
trồng cây “kàna” trong vườn ông nơi có mộ người, mới sống yên lành. Ông vào
rừng chặt một cành cây “kàna”[18] và trồng trên đầu mộ, đến nay
cây không to, nếu như trồng nơi khác, thân cây này phải rất to phải 2 người ôm
mới hết thân cây. Nhưng cây này 60 năm mà chu vi chúng tôi đo được 1 mét 2,
đường kính là 4 m mà thôi. Theo ông nói: đây là điều lạ. Có một cây thánh
giá gần cây Kàna và ở đây có 3 mộ đã chôn: giữa là Cha Combes Bê
(đã lấy cốt), một mộ là Anrê Tốt và bên nữa là một người con của chú giáo phu
nay đang sống tại Kon Sơlal. Ngoài hai ông bà cụ đang sinh sống tại làng Kon
Kơxâm cũ này (nay có tên là Kon Băh), có vợ chồng của con gái út của ông nữa.
Họ làm nương rẫy: trồng mì, bắp, trồng cây tre lấy măng cũng như đị đánh
bắt câu cá trên sông Dak-Bla ngay sát nhà ông. Ông nuôi bò. Sống khá chật vật,
dầu vậy không bỏ làng đi nơi khác.
Dưới gốc
cây kàna “long chơlách”, nơi đã an táng Cha Bề trên Combes năm 1857
Phần cột
nhà thờ thứ hai tại Kon Kơxâm
Tại Kon Kơxâm
này, còn có gốc cột nhà nguyện thời kỳ của Cha Combes. Đây là nhà nguyện được
dân làng làm sau khi họ chấp nhận cho các người xa lạ đang sống trong rừng sâu,
ngoài làng, thượng nguồn sông Dak Bla, phía đông bắc, rất nguy hiểm vì thú dữ và
bầy muỗi rừng. Chúng tôi cũng thấy được bên kia đối diện Kon Kơxâm (hữu ngạn
sông) có núi rất cao, rậm rạp cây to. Các chú giáo phu làng Kon Sơlal cho biết
tên núi đó là Yă Jrais, có lần Bok Lành đã lên trên núi Yă Jrais này[19].
Hành hương về cội
nguồn, nơi vị Bề Trên đầu tiên vùng Tây Nguyên là Cha Phêrô Combes Bê đã nằm
xuống, gởi thân vào lòng đất Kon Kơxâm dù chỉ một thời gian (+ 1857). Không
muộn! 156 năm sau kể từ ngày các vị truyền giáo đầu tiên đã đến cư trú giữa anh
em dân tộc Bahnar Jơlơng (vào năm 1851), đến nay cũng không trễ, lại một con
người linh mục được sai đến để tiếp nối hiện diện tại nơi đó với sứ mạng đem
Tin Mừng đến cho những con người nhỏ bé bị thua thiệt. Ơn Chúa là niềm Hy Vọng,
là Nguồn Sinh Lực, là Ánh Sáng soi đường cho những người Chúa thương tiến bước:
dân tộc Bahnar Jơlơng vậy.
KONTUM. NĂM
2013
Linh mục
Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét