Thánh Augustine Hippo
(354-430)
à Kitô Hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, được tấn phong giám
mục lúc 41 tuổi: ai ai cũng quen thuộc với tiểu sử tóm lược của Thánh
Augustine Hippo, một tội nhân-trở thành-thánh-nhân. Nhưng có thực sự
biết về cuộc đời thánh nhân thì điều đó mới có giá trị.
Trong cuộc đời ngài, dù khi xa cách Thiên Chúa hay hướng về
Thiên Chúa, cường độ mãnh liệt của đời sống mau chóng xuất hiện. Nước
mắt của mẹ ngài, những lời huấn đức của Thánh Ambrôsiô và, trên hết mọi
sự, chính Thiên Chúa nói với ngài qua Kinh Thánh đã thay đổi sự ưa
chuộng thế gian của Augustine thành một cuộc đời đầy bác ái.
Từng đắm chìm trong sự cao ngạo trần tục trong thời niên thiếu
và từng say sưa cặn bã cay đắng của cuộc đời, nên người ta không ngạc
nhiên khi thấy Augustine quay trở về với sự thánh thiện mãnh liệt, để
chống trả những tấn công của ma quỷ trong cuộc đời ngài. Thời đại của
ngài thực sự sa sút -- về chính trị, xã hội và luân lý. Người ta vừa sợ
và vừa quý mến ngài, giống như Thầy Giêsu. Ngài bị chỉ trích không bao
giờ cùng, và đó là bản tính khắt khe của loài người.
Cuộc đời ngài, do ý trời ngài đã chu toàn nhiệm vụ của một
tiên tri. Như tiên tri Giêrêmia và các vị đại tiên tri khác, ngài bị
chèn ép nhưng không thể giữ im lặng. "Tôi tự nhủ, tôi sẽ không nhắc đến
Ngài, tôi sẽ không nhân danh Ngài mà lên tiếng nữa. Nhưng rồi như lửa
bừng cháy trong tim, giam hãm thân thể tôi; và tôi cầm hãm không nổi,
chịu đựng không thấu" (Giêrêmia 20:9).
Thánh Monica
(322?-387)
oàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài
thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng và một người
mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào. Mặc
dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả ngài cho một người ngoại
giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi
Châu. Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng.
Ngoài ra Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng. Ông
Patricius thường rầy la vợ vì bà hay thương người. Nhưng sự cầu nguyện
và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người
chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ trở về đạo Công Giáo. Ông
Patricius chết năm 371, sau khi rửa tội được một năm để lại người vợ goá
và ba con nhỏ.
Người con cả, Augustine Hippo, nổi tiếng nhất (sau này là
thánh). Vào lúc cha chết, Augustine mới 17 tuổi và là sinh viên trường
hùng biện ở Carthage. Thánh Monica thật đau buồn khi thấy con mình đi
theo tà thuyết Manikê và sống cuộc đời phóng đãng. Có những lúc Thánh
Monica không cho con được ăn ngủ ở trong nhà. Và rồi một đêm kia, ngài
được thị kiến và được đảm bảo là Augustine sẽ trở về với đức tin. Từ đó
trở đi ngài sống gần với con hơn để ăn chay và cầu nguyện cho con. Quả
vậy, ngài ở gần đến nỗi Augustine cũng phải bực mình.
Khi 29 tuổi, Augustine quyết định đi Rôma để dạy về hùng biện.
Một tối kia, Augustine nói với mẹ là anh ra bến tầu để từ giã bạn bè.
Nhưng, anh lại lên tầu đi Rôma. Thánh Monica thật đau lòng khi biết mình
bị lừa, nhưng ngài nhất định đi theo. Vừa đến Rôma thì ngài lại biết là
Augustine đã đi Milan. Mặc dù việc di chuyển khó khăn, Thánh Monica vẫn
nhất định bám sát.
Ở đây, Augustine bị ảnh hưởng bởi một giám mục, Ðức Ambrôsiô,
là vị linh hướng sau này của Thánh Monica. Augustine chấp nhận mọi lời
khuyên của đức giám mục và tập được đức khiêm tốn đến độ ngài có thể từ
bỏ được nhiều tật xấu. Thánh Monica trở thành người lãnh đạo của nhóm
phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi ở Tagaste.
Ngài tiếp tục cầu nguyện cho Augustine trong những năm anh
theo học với đức giám mục. Vào Phục Sinh năm 387, Ðức Ambrôsiô rửa tội
cho Augustine và một vài người bạn của anh. Không lâu sau đó, cả nhóm đi
Phi Châu. Lúc ấy, Thánh Monica biết cuộc đời ngài sắp chấm dứt, ngài
nói với Augustine, "Con ơi, không có gì trên trần gian này làm mẹ vui
lòng cả. Mẹ không biết có còn gì phải thi hành và tại sao mẹ lại ở đây,
vì mọi hy vọng của mẹ ở trần gian này đều đã được hoàn tất." Sau đó
không lâu ngài bị bệnh và chịu đau đớn trong chín ngày trước khi từ
trần.
Tất cả những gì chúng ta biết về Thánh Monica là trong tác phẩm Tự Thú của Thánh Augustine.
Thánh Ambrôsiô
(340?-397)
ột trong các người viết tiểu sử về Thánh Ambrôsiô nói
rằng: vào ngày Phán Xét Chung sẽ vẫn còn sự tách biệt giữa những người
thích thánh nhân và những người cực kỳ ghét bỏ ngài. Thánh Ambrôsiô nổi
tiếng là một người có những quyết định táo bạo ảnh hưởng đến đời sống
của những người cùng thời.
Vào năm 33 tuổi, Thánh Ambrôsiô đã có tất cả mọi sự - một sự
nghiệp đầy hứa hẹn là luật sư, một vị thế quan trọng trong chính trường
là tổng trấn Milan, ngoài ra ngài còn là người bạn và đồng chí với hoàng
đế, cùng với một gia tài kếch sù.
Và rồi vị giám mục của Milan từ trần. Vào lúc ấy, khoảng năm
374, nhiều tà giáo muốn tiêu diệt Giáo Hội. Vị cố giám mục Milan từng
hậu thuẫn cho lạc giáo Arian chống lại giáo huấn về thiên tính của Ðức
Kitô. Vậy ai sẽ là người kế vị - người Công Giáo hay người của phe
Arian? Cả hai phe đụng độ nhau ở vương cung thánh đường và một cuộc bạo
động xảy ra.
Duy trì trật tự công cộng là trách nhiệm của quan tổng trấn
Ambrôsiô, nên ngài vội vã chạy đến nhà thờ và hùng hồn lên tiếng, không
ủng hộ phe phái nào cả, nhưng ủng hộ sự hoà bình. Ngài xin dân chúng hãy
bình tĩnh, kềm chế sự nóng nẩy và chọn lựa giám mục mà không cần phải
xô xát.
Trong khi ngài đang nói, bỗng dưng có người hô to, " Bầu Ambrôsiô làm giám mục!" Thế là tất cả mọi người đều đồng thanh, " Ambrôsiô là giám mục!"
Các vị giám mục khác của tỉnh thì quá vui mừng khi được phủi
tay trước vấn đề khó khăn này. Nhưng Ambrôsiô không dễ hy sinh một sự
nghiệp đầy hứa hẹn để chấp nhận công việc của một giám mục đầy nguy hiểm
- một công việc ảnh hưởng đến tính mạng trong thời lạc giáo. Bởi thế
Ambrôsiô bỏ trốn. Khi ngài cầu viện đến hoàng đế để thay đổi quyết định
nói trên với lý do là ngài chưa rửa tội, vị hoàng đế lại tuyên bố rằng
ông rất vui mừng khi chọn được quan tổng trấn thích hợp với chức giám
mục. Ambrôsiô trốn tránh trong nhà của một nghị sĩ, nhưng ông này đã đem
nộp Ambrôsiô khi ông biết quyết định của hoàng đế.
Không còn biết trốn vào đâu nữa, Ambrôsiô ra đầu hàng. Vì ngài
bị ép buộc phải chấp nhận chức giám mục, nên sẽ không ai ngạc nhiên nếu
ngài vẫn tiếp tục lối sống cũ, như trước khi được tấn phong. Tuy nhiên,
ngay sau đó Ambrôsiô đã phân phát tài sản cho người nghèo và tự đặt
mình dưới sự chỉ dẫn của Thánh Simplician để học thần học và Kinh Thánh.
Phe Arian tưởng rằng Ambrôsiô sẽ là giám mục "của họ" vì ngài
từng là một viên chức của triều đình, và nhiều người trong chính quyền
đều thuộc phe Arian. Nhưng Ambrôsiô đã dùng sở trường của một luật sư và
tài hùng biện để chống lại phe Arian bất cứ nơi nào, dù ở nhà thờ,
triều đình, thượng viện, hay ngay cả trong hoàng tộc. Tính ngoan cố của
ngài khi không chấp nhận chức giám mục lúc đầu, nay lại trở thành vũ khí
trong cuộc chiến chống lại lạc giáo và giúp ngài quyết tâm theo đuổi sự
thánh thiện.
Khi người Goth xâm chiếm đế quốc và bắt nhiều người làm con
tin, Ðức GM Ambrôsiô đã phải dùng chính tài sản của mình để chuộc. Ngài
nói sự bác ái có giá trị nhất là chuộc kẻ tù đầy. Ngay cả các bình vàng
của Giáo Hội, ngài cũng đem bán để lấy tiền chuộc. Ngài nói, " Cứu vớt
các linh hồn cho Chúa thì tốt hơn là duy trì tài sản. Ðức Kitô đã sai
các tông đồ đi rao giảng mà không có vàng bạc, và cũng không cần vàng
bạc để thành lập Giáo Hội của Ngài. Giáo Hội làm chủ vàng bạc, không
phải để tích trữ, nhưng để phân phối và giúp đỡ những người kém may mắn."
" Chắc chắn Chúa sẽ hỏi chúng ta: 'Tại sao con lại để quá
nhiều người nghèo đói? Vì con có vàng bạc, con phải cấp dưỡng cho họ' -
Có thể nào chúng ta trả lời rằng: 'Vì con không muốn để đền thờ của Chúa
không được trang hoàng.' Nhưng những gì không mua được bởi vàng bạc thì
cũng không có giá trị bởi vàng bạc. Phương cách tốt nhất để sử dụng
vàng bạc của Ðấng Cứu Thế và hãy cứu vớt những người lâm cảnh hoạn nạn."
Ðức GM Ambrôsiô luôn luôn lưu tâm đến người nghèo hơn là quyền
lực. Ngài thường khiển trách người giầu khi lãng quên người nghèo: " Thiên
Chúa tạo nên vũ trụ trong một phương cách để tất cả những gì là của
chung sẽ đem lại no ấm cho con người, và trái đất là sở hữu chung của
tất cả mọi người. Tại sao bạn lại từ chối một người cũng có quyền đối
với thiên nhiên như bạn? Của cải bạn cho người ăn xin không phải của
chính bạn, nhưng đó là phần của người ấy mà bạn phải hoàn trả cho họ.
Trái đất thuộc về tất cả mọi người. Bởi thế, bạn đang trả nợ mà lại nghĩ
đang ban bố một ơn huệ."
Khi hoàng đế từ trần, Hoàng Hậu Justina, một người phe Arian,
trở thành nhiếp chính cho đứa con trai bốn tuổi. Maximus, một cựu sĩ
quan Rôma, biết rằng cái chết của hoàng đế sẽ làm suy yếu đế quốc nên dự
định tấn công. Justina xin Ambrôsiô thương lượng với tên này. Mặc dù
Justina là một kẻ thù, Ambrôsiô đã lên đường thi hành nhiệm vụ và đã
thuyết phục được Maxima ngừng xâm lăng.
Thay vì biết ơn Ambrôsiô, Hoàng Hậu Justina lại yêu cầu Ðức GM
Ambrôsiô trao lại vương cung thánh đường cho phe Arian. Thánh nhân trả
lời rằng ngài không bao giờ nhường đền thờ của Thiên Chúa.
Dân chúng đứng về phe Ðức GM Ambrôsiô. Ngài thừa khả năng để
thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ Justina. Nhưng ngài thận trọng không
dùng bất cứ lời nói hay hành động nào để khích động dân chúng.
Khi một số người Công Giáo bắt giữ một linh mục phe Arian và
kết án tử hình, nhân danh hòa bình Ðức GM Ambrôsiô đã xin tha cho vị
linh mục và nói rằng: Thiên Chúa sẽ phải đau khổ khi thấy cảnh máu chảy
thịt rơi. Ngài gửi các linh mục và phó tế của ngài đến giải thoát cho vị
linh mục Arian này.
Sau đó Hoàng Hậu Justina thuyết phục con mình ban bố luật lệ
để hợp pháp hóa lạc giáo Arian và cấm người Công Giáo không được chống
đối người Arian. Không ai có thể đệ trình một thỉnh cầu chống với một tổ
chức tôn giáo đang có thế lực.
Vào Chúa Nhật Lễ Lá, trong bài giảng, Ðức GM Ambrôsiô tuyên bố
không nhường lại các nhà thờ. Cả giáo đoàn, vì lo sợ cho tính mạng, đã
phòng thủ trong nhà thờ với vị chủ chăn là Ðức GM Ambrôsiô. Quân triều
đình bao vây chung quanh ngăn chặn mọi đường tiếp tế, để dân chúng vì
đói mà phải ra đầu hàng. Cho đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh, tất cả mọi
người vẫn kiên trì phòng thủ.
Khi chạm trán với lực lượng bao vây, Ðức GM Ambrôsiô nói, " Vũ khí của tôi chỉ là nước mắt. Tôi không muốn từ bỏ nơi đây, nhưng tôi cũng không chống cự bằng võ lực."
Ðể trấn an dân chúng đang khiếp sợ, Ðức GM Ambrôsiô dạy họ hát
thánh vịnh do chính ngài sáng tác. Ngài chia cộng đoàn làm hai bên để
đối đáp. Ðây là lần đầu tiên việc hát đáp ca được ghi nhận trong lịch sử
Giáo Hội.
Tiếng nhạc và lời kinh vượt ra ngoài bốn bức tường của thánh
đường và làm rúng động tâm hồn các binh lính. Không bao lâu, chính họ
cũng cất tiếng phụ họa. Sự vây hãm chấm dứt.
Vì biết quân triều đình đang tập trung vào việc chống đối
người Công Giáo, Maximus một lần nữa lại quyết định tấn công Rôma.
Justina và hoàng tộc thật kinh hãi. Không biết trông vào ai, sau cùng họ
lại quay về với người mà họ từng tấn công và đe dọa. Họ xin Ðức GM
Ambrôsiô đến gặp Maximus và ngăn chặn sự tấn công.
Trong một hành động tha thứ có thể nói lạ lùng, Ðức GM
Ambrôsiô lại thi hành nhiệm vụ cho kẻ thù. Khi Maximus từ chối thoả
hiệp, ngài vội vã trở về để chuẩn bị. Justina và hoàng tộc trốn sang Hy
Lạp, trong khi Ðức GM Ambrôsiô ở lại chống đỡ. May mắn thay, vị hoàng đế
đông phương là Theodosius đã can thiệp và đánh bại Maximus. Tuy nhiên,
sau đó Theodosius đã chiếm quyền kiểm soát toàn thể đế quốc Rôma.
Theodosius là người Công Giáo và sau này trở thành người bạn chí thiết
của Ðức GM Ambrôsiô.
Ðức GM Ambrôsiô từ trần năm 397, khoảng 57 tuổi. Lễ kính được đặt vào ngày 7 tháng Mười Hai, là ngày ngài " bị" tấn phong giám mục.
Thánh Cyril ở Giêrusalem
(315? - 386)
hững khó khăn trong Giáo Hội ngày nay chỉ là thiểu số
so với các chấn động của lạc giáo Arian thời ấy khi từ chối thiên tính
của Ðức Kitô. Thánh Cyril bị vướng vào vòng tranh luận, bị Thánh Giêrôme
kết án là người theo tà thuyết Arian và sau cùng ngài đã được thanh
minh bởi những người của thời ấy và được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh
năm 1822.
Chúng ta không biết nhiều về cuộc đời thơ ấu của Thánh Cyril.
Các sử gia ước đoán ngài sinh trong khoảng năm 315, và lớn lên ở
Giêrusalem. Về gia đình ngài, có lẽ cha mẹ ngài là Kitô Hữu và dường như
ngài rất thảo kính cha mẹ. Ngài thúc giục các dự tòng kính trọng các
bậc sinh thành "vì dù chúng ta có đền đáp thế nào đi nữa, cũng không thể
nào bù đắp được công ơn sinh thành của cha mẹ." Chúng ta còn được biết
ngài có một em gái và một cháu trai, Gelasius, sau này là giám mục và là
thánh.
Qua các văn bút ngài để lại, dường như ngài thuộc về nhóm gọi
là Solitary (Ðộc Thân). Họ là những người sống tại gia nhưng giữ đức
khiết tịnh, khổ hạnh và phục vụ.
Sau khi được tấn phong là phó tế và sau đó là linh mục, đức
giám mục Maximus đã giao cho ngài trách nhiệm dạy giáo lý cho dự tòng và
tân tòng. Sách Giáo Lý ngài viết vẫn có giá trị như một thí dụ điển
hình cho nền tảng thần học và phụng tự của Giáo Hội vào giữa thế kỷ thứ
tư.
Khi Ðức Maximus từ trần, Cha Cyril được tấn phong làm giám mục
của Giêrusalem. Vì ngài được sự hỗ trợ của giám mục Caesarea là Acacius,
người theo lạc thuyết Arian, nên phe chính giáo chỉ trích việc bổ nhiệm
này, và phe Arian lại nghĩ rằng họ có thêm một đồng minh. Cả hai phe
đều sai lầm, và Ðức Cyril thì kẹt ở giữa.
Khi nạn đói càn quét Giêrusalem, dân chúng chạy đến Ðức Cyril
xin giúp đỡ. Vì không có tiền, ngài phải bán một số đồ dùng của nhà thờ
để giúp đỡ người đói. Nhưng có những lời dèm pha rằng một số áo lễ được
dùng làm y phục cho kép hát.
Sự bất hòa giữa Acacius và Ðức Giám Mục Cyril bắt đầu là về vấn
đề quản hạt chứ không phải vấn đề tín lý. Là giám mục của Caesarea,
Acacius nghĩ rằng mình có toàn quyền trên các giám mục Palestine. Nhưng
Ðức GM Cyril lý luận rằng thẩm quyền của Acacius không bao gồm
Giêrusalem vì Giêrusalem là một "tông tòa" - là ngai toà do các tông đồ
thiết lập. Khi Ðức Cyril không hiện diện trong các công đồng mà Acacius
triệu tập, Acacius và phe cánh đã kết án ngài là đã bán vật dụng của nhà
thờ để kiếm tiền và trục xuất ngài.
Ðức Cyril phải lưu đầy ở Tarsus trong khi chờ đợi việc kháng
cáo. Sau đó, ngài xuất hiện trong Công Ðồng Seleucia, trong đó phe
bán-Arian chiến thắng. Kết quả là Acacius bị truất phế và Ðức Cyril được
trở về ngai toà cũ. Tuy nhiên, hoàng đế không hài lòng về kết quả này,
và một lần nữa, Ðức GM Cyril lại bị trục xuất và chỉ trở về khi hoàng đế
Julian lên ngôi. Ðược vài năm sau, một sắc lệnh của tân hoàng đế Valens
trục xuất tất cả các giám mục được Julian hồi phục, và Ðức Cyril lại
phải lưu đầy cho tới khi Valens qua đời.
Có thể nói một nửa nhiệm kỳ giám mục của Ðức Cyril là bị đầy
ải. Sau cùng, ngài trở về Giêrusalem, lúc ấy đã tan nát vì lạc giáo, ly
giáo và tranh giành, tàn lụi vì tội lỗi. Năm 381, ngài đến tham dự Công
Ðồng Constantinople, là công đồng hoàn tất bản kinh Tin Kính Nicene và
phe Arian bị kết án. Ðức Cyril được thanh minh và được tẩy sạch mọi
tiếng xấu trước đây, các giám mục tham dự Công Ðồng đã ca ngợi ngài như
vị quán quân chính thống chống với bè phái Arian.
Ðức Cyril sống an bình tám năm ở Giêrusalem và từ trần năm 386, khi ngài khoảng bảy mươi tuổi.
Thánh Cyril ở Alexandria
(376?-444)
hánh Cyril sinh ở Alexandria, Ai Cập. Ngài là cháu
của Ðức Theophilus, thượng phụ của Alexandria. Sau khi học xong kinh
điển và thần học, ngài được chính bác của mình tấn phong linh mục và
tháp tùng Ðức Theophilus đến Constantinople để tham dự Thượng Hội Ðồng
Oak nhằm truất phế Ðức Gioan Kim Khẩu (sau này mới biết là bị kết tội
oan).
Khi Ðức Theophilus từ trần vào năm 412, ngài lên kế vị bác của
mình sau cuộc tranh đấu với phe ủng hộ người đối thủ là Timotheus. Ngay
sau khi lên ngôi, Ðức Cyril bắt đầu tấn công lạc thuyết Novatianô với
việc đóng cửa các nhà thờ; đuổi những người Do Thái ra khỏi thành phố;
và phản bác một số hành động của quan đầu tỉnh Orestes là người theo phe
Novatianô.
Vào năm 430, Ðức Cyril lại xung đột với Nestorius, thượng phụ
của Constantinople, là người cho rằng Ðức Maria không phải là Mẹ Thiên
Chúa vì Ðức Kitô là Thiên Chúa chứ không phải con người, hậu quả là
không thể dùng chữ theotokos (người-mang-Thiên-Chúa) áp dụng cho Ðức
Maria. Ðức Cyril thuyết phục được Ðức Giáo Hoàng Celestine I triệu tập
một công đồng ở Rôma nhằm lên án Nestorius, và chính ngài cũng hành động
tương tự trong công đồng Alexandria.
Vào năm 431, Ðức Giáo Hoàng Celestine ra lệnh cho Ðức Cyril
truất phế Nestorius. Trong Ðại Công Ðồng Ephêsô lần thứ ba, với sự tham
dự của hai trăm giám mục và dưới sự chủ tọa của Ðức Cyril, công đồng đã
lên án mọi giáo thuyết của Nestorius là sai lầm trước khi Ðức TGM Gioan ở
Antiôkia và bốn mươi hai môn đệ ủng hộ giáo thuyết của Nestorius kịp
đến tham dự. Khi thấy mọi sự đã lỡ, họ tổ chức một công đồng riêng để
truất phế Ðức Cyril. Hoàng Ðế Theodosius II bắt giữ cả hai người, Ðức
Cyril và Nestorius nhưng sau đó đã trả tự do cho Ðức Cyril khi các đại
diện của đức giáo hoàng xác nhận các quyết định của công đồng.
Hai năm sau, Ðức TGM Gioan, đại diện cho các giám mục ôn hòa ở
Antiôkia, đã ký kết một thỏa ước với Ðức Cyril và cùng lên án Nestorius.
Trong quãng đời còn lại, Ðức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ
học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể nhằm ngăn chặn
lạc thuyết Nestorius và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu.
Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống
Alexandria. Văn bút của ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập
trường rõ ràng, và lý luận sắc bén. Các văn bản của ngài gồm các nhận
định về Thánh Gioan, Thánh Luca, và ngày lễ Ngũ Tuần, các luận thuyết về
thần học tín lý, cũng như các thư từ và bài giảng. Ngài được Ðức Giáo
Hoàng Lêô XIII tuyên xưng là tiến sĩ Giáo Hội vào năm 1882.
Thánh Bênêđích (Biển Ðức)
(480?-543)
hật đáng tiếc là không ai viết nhiều về một vị đã thể
hiện biết bao kỳ công ảnh hưởng đến nếp sống đan viện Tây Phương. Thánh
Bênêđích được đề cập đến nhiều trong các Ðối Thoại của Thánh Grêgôriô
Cả sau khi ngài chết khoảng năm mươi năm, nhưng đó chỉ là các sơ thảo
của biết bao điều lạ lùng trong đời thánh nhân.
Ngài sinh trong một gia đình lỗi lạc ở Nursia, thuộc miền trung
nước Ý, theo học tại Rôma và ngay từ khi còn trẻ, ngài đã thích đời
sống đan viện. Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu sống trong một cái hang ở
Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy giờ giặc ngoại giáo
đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng đau khổ vì
chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất.
Sau đó không lâu, ngài thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở
gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài đi lên núi cao, sống trong một
cái hang và ở đó ba năm. Trong một thời gian, một số đan sĩ chọn ngài
làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được sự nghiêm nhặt
của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn tu sang
đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau
thành một "Ðại Ðan Viện", đem lại cho họ lợi ích của sự hợp quần, tình
huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà. Sau cùng, ngài khởi
công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng
là nơi phát sinh dòng Bênêđích.
Cũng từ đó, một quy luật từ từ được hình thành nói lên đời sống
cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân tay và sống với nhau trong
một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng. Sự khổ hạnh của
Thánh Bênêđích được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được
thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh. Trong thời Trung
Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh
Bênêđích.
Thánh Patrick
(389?-461?)
ruyền thuyết về Thánh Patrick thì quá nhiều; nhưng
khi nhìn đến hai đức tính chắc chắn của ngài: khiêm tốn và dũng cảm thì
điều đó có ích lợi cho chúng ta. Chính thái độ cương quyết khi chấp nhận
đau khổ cũng như thành công đã hướng dẫn cuộc đời của Thánh Patrick,
một khí cụ của Thiên Chúa, để chiến thắng cho Ðức Kitô hầu như tất cả
tâm hồn người Ái Nhĩ Lan.
Chi tiết về đời ngài thì không chắc chắn. Về nơi sinh trưởng
của Thánh Patrick, có người cho là ở Kilpatrick, Tô Cách Lan, có người
nói ở Cumberland, Anh Quốc. Cha mẹ ngài là người Rôma sống ở Anh Quốc
với nhiệm vụ cai quản các bán đảo.
Khoảng 14 tuổi, chính ngài và phần lớn các nô lệ cũng như các
quần thần của cha ngài bị hải tặc Ái Nhĩ Lan bắt và bán làm nô lệ để
chăn cừu. Trong thời gian này, Ái Nhĩ Lan là đất của người Druid và
ngoại giáo. Ở đây, ngài học ngôn ngữ và phong tục của dân tộc đang bắt
giữ ngài.
Sáu năm sau, Patrick vượt thoát, có lẽ đến nước Pháp, và sau đó
trở về Anh đoàn tụ với gia đình. Trong thời gian bị bắt tinh thần ngài
thay đổi hoàn toàn. Ngài bắt đầu học làm linh mục, và được chịu chức bởi
Thánh Germanus, Ðức Giám Mục của Auxerre.
Sau đó, khi 43 tuổi ngài được tấn phong giám mục. Trong một thị
kiến, dường như "mọi trẻ con ở Ái Nhĩ Lan từ trong lòng mẹ vươn cánh
tay" đến ngài. Ngài hiểu thị kiến này là một lời mời gọi đi rao giảng
Tin Mừng cho người ngoại giáo Ái Nhĩ Lan. Ngài đến phía tây và phía bắc,
là nơi chưa bao giờ đức tin được rao giảng ở đây, và ngài đã được sự
bảo vệ của các vua chúa trong vùng và đã hoán cải rất nhiều người.
Ngài tấn phong nhiều linh mục, chia quốc gia này thành các giáo
phận, tổ chức các công đồng, thành lập vài đan viện và tiếp tục thúc
giục dân chúng sống thánh thiện hơn.
Ngài chịu đau khổ vì bị các tăng sĩ ngoại giáo chống đối, và bị
chỉ trích cả ở Anh và Ái Nhĩ Lan vì đường lối truyền giáo của ngài.
Trong 40 năm rao giảng và hoán cải, ngài đã làm nhiều phép lạ
và đã viết Confessio nói về tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài
từ trần năm 461 ở Saul, là nơi ngài xây dựng nhà thờ đầu tiên.
Thánh Columba
(543? - 615)
hánh Columba là nhà truyền giáo nổi tiếng người Ái
Nhĩ Lan, hoạt động ở Âu Châu. Khi còn là thanh niên, ngài bị đau khổ dữ
dội vì sự cám dỗ của xác thịt, ngài phải xin sự cố vấn của một bà đạo
đức sống ẩn tu lâu năm. Qua lời khuyên bảo của bà, ngài nhìn thấy ơn gọi
của mình. Ðầu tiên ngài là một tu sĩ trên đảo Lough Erne, sau đó ngài
theo học tại tu viện Bangor.
Sau nhiều năm sống tách biệt để cầu nguyện, ngài đến xứ Gaul
(nước Pháp bây giờ) để truyền giáo cùng với 12 người bạn. Các ngài được
dân chúng quý trọng vì sự hăng say rao giảng, làm việc tông đồ, và luôn
tuân giữ lời khấn bác ái, trong khi tu sĩ thời ấy thì lười biếng và dân
chúng luôn luôn xung đột. Thánh Columba thiết lập vài tu viện ở Âu Châu
mà sau này trở thành các trung tâm tôn giáo và văn hóa.
Như mọi vị thánh khác, ngài cũng bị chống đối. Cuối cùng ngài
phải cầu khẩn đến đức giáo hoàng để chống với cáo buộc của các giám mục
người Pháp, nhằm minh xác điều ngài giảng dạy là chân thật và chấp thuận
các tục lệ của Ái Nhĩ Lan. Ngài khiển trách vị vua về đời sống dâm loạn
của ông dù đã thành hôn. Do đó, thánh nhân đã bị trục xuất trở về Ái
Nhĩ Lan. Vì bão lớn, tầu của ngài bị mắc cạn, và ngài lại tiếp tục công
việc truyền giáo ở Âu Châu, sau cùng ngài đến nước Ý, là nơi ngài được
tiếp đón ân cần bởi ông vua của người Lombard. Trong những năm cuối đời,
ngài thiết lập một tu viện nổi tiếng ở Iona, và cũng là nơi ngài từ
trần. Các văn tự ngài để lại gồm một luận án về sự ăn năn sám hối và các
văn bản chống với bè rối Arian, các bài giảng, thi ca và quy luật tu
viện.
Thánh Grêgôriô Cả
(540?-604)
rong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp sau nổi tiếng hơn sự
nghiệp trước. Ngài là trưởng thánh bộ Rôma trước khi 30 tuổi. Năm năm
sau đó, ngài từ chức, sáng lập sáu đan viện trên các phần đất của ngài ở
Sicilia và chính ngài là một tu sĩ dòng Biển Ðức (Benedictine) ở Rôma.
Sau khi thụ phong linh mục, ngài là một trong bảy phó tế của
đức giáo hoàng, và ngài còn giữ chức vụ sứ thần tòa thánh ở
Constantinople, Ðông Phương. Sau đó ngài được gọi về làm đan viện
trưởng, và vào lúc 50 tuổi, ngài được chọn làm giáo hoàng bởi hàng giáo
sĩ và giáo dân Rôma.
Ngài thẳng tính và kiên quyết. Ngài cách chức các linh mục bất
xứng, cấm không được lấy tiền khi phục vụ, và ngài lấy tất cả quỹ riêng
của đức giáo hoàng để chuộc các tù nhân bị phe Lombard bắt và săn sóc
những người Do Thái bị bách hại và các nạn nhân của nạn dịch tễ cũng như
nạn đói kém. Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh nên đã sai
40 đan sĩ của ngài đến hoạt động ở đây. Ngài nổi tiếng vì những cải cách
phụng vụ, và củng cố sự tôn trọng học thuyết. Người ta đang tranh luận
xem có phải chính ngài là người chịu trách nhiệm phần lớn nhạc bình ca
(Gregorian) hay không.
Thánh Grêgôriô sống trong giai đoạn luôn luôn có bất hòa vì sự
xâm lăng của phe Lombard và vì những tương giao khó khăn với Giáo Hội
Ðông Phương. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài là người đến chất vấn vua
Lombard.
Một sử gia Anh Giáo đã viết: "Không thể nào tưởng tượng được
những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ--thật lộn xộn, vô trật tự--nếu
không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ,
vị cha chung đích thực là Ðức Grêgôriô Cả."
Cuốn sách của ngài, Cách Chăm Sóc Mục Vụ, nói về nhiệm vụ và
đặc tính của môät giám mục, đã được đọc trong bao thế kỷ sau khi ngài
chết. Ngài diễn tả vị giám mục chính yếu như một y sĩ mà nhiệm vụ chính
là rao giảng và duy trì kỷ luật. Trong các bài giảng thực tế của ngài,
Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của
giáo dân. Ðược gọi là "Cả", Thánh Grêgôriô được nâng lên một vị trí
ngang hàng với Thánh Augustine, Thánh Ambrôsiô và Thánh Giêrôme như một
trong bốn vị tiến sĩ nòng cốt của Giáo Hội Tây Phương.
Thánh Augustine ở Canterbury
(c. 605?)
ào năm 596, một nhóm đan sĩ 30 người khởi hành từ Rôma đi truyền giáo
cho người Anglo-Saxon ở Anh. Dẫn đầu là Augustine, bề trên đan viện
Thánh Anrê ở Rôma. Nhưng khi đến Gaul (Pháp) họ nghe những câu chuyện dã
man về người Anglo-Saxon cũng như sự nguy hiểm của các luồng nước ở eo
biển, họ quay trở về Rôma và gặp vị giáo hoàng đã sai họ đi - Thánh
Grêgôriô Cả - và đức giáo hoàng cho biết sự lo sợ của họ thì vô căn cứ.
Một lần nữa Thánh Augustine lại ra đi, và lần này cả nhóm đã
vượt qua eo biển và cập bến đất Kent thuộc về Vua Ethelbert, là người
ngoại giáo kết hôn với một Kitô Hữu, bà Bertha, công chúa nước Pháp. Vua
Ethelbert tiếp đón họ nồng hậu, thiết lập cho họ nơi cư trú ở
Canterbury và trong năm ấy, vào Chúa Nhật Hiện Xuống năm 597, chính nhà
vua đã được rửa tội.
Sau khi được tấn phong làm giám mục ở Pháp, Thánh Augustine trở
lại Canterbury, là nơi ngài thiết lập giáo phận và khởi công xây dựng
vương cung thánh đường. Khi số tín hữu ngày càng gia tăng, các giáo phận
khác được ngài mở thêm ở Luân Ðôn và Rochester.
Cuộc đời Thánh Augustine cũng gặp nhiều thất bại. Những cố gắng
hòa giải giữa Kitô Hữu Anglo-Saxon và Kitô Hữu Briton bản xứ đã kết
thúc trong thất bại đau buồn. Thánh Augustine cũng không thuyết phục
được người Briton từ bỏ một số phong tục khác biệt với Rôma và quên đi
những cay đắng để giúp ngài phúc âm hóa người Anglo-Saxon, là kẻ xâm
lăng đã dồn người Briton về miền tây.
Sau những thất bại, Thánh Augustine đã khôn ngoan hơn để ý đến
các nguyên tắc truyền giáo - đối với thời bấy giờ thật sáng suốt mà Ðức
Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đề nghị: Hãy thanh tẩy thay vì tàn phá các đền
thờ và các phong tục ngoại giáo; hãy du nhập các nghi thức và ngày lễ
của người ngoại giáo vào ngày lễ Kitô Giáo; duy trì các truyền thống địa
phương càng nhiều càng tốt.
Sau tám năm đến Anh, sự thành công của Thánh Augustine tuy hạn
hẹp nhưng sau này đã đem lại kết quả tốt đẹp là cả nước Anh đã tòng
giáo. Quả thật, Thánh Augustine đáng được gọi là " Tông Ðồ của Anh Quốc".
|