Phong tục Tết của người Việt: tục gói bánh chưng ngày tết & tục treo tranh tết và câu đối tết
Kính
thưa quý độc giả, nhân dịp Xuân về, chúng tôi xin giới thiệu đến quý vị
một bài nghiên cứu chuyên sâu về phong tục ngày Tết cổ truyền Việt Nam
của tác giả Michael Nguyễn Hạnh. Thầy Michael Nguyễn Hạnh là một nhà
nghiên cứu về văn hóa, Hán – Nôm và là thành viên Ban Từ Vựng Công Giáo
thuộc Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Từ hôm nay cho đến Tết, chúng tôi sẽ
lần lượt giới thiệu đến quý vị từng phần của bài viết này. Hy vọng qua
bài viết của thầy, chúng ta sẽ có dịp được tìm hiểu sâu xa hơn về nguồn
gốc, ý nghĩa… của phong tục ngày Tết.
——————
PHONG TỤC TẾT CỦA NGƯỜI VIỆT
Michel Nguyễn Hạnh, Nhóm Lasan 100
Tục gói bánh chưng ngày tết
Qua Truyện bánh chưng, Lĩnh Nam Chích Quái, ai cũng biết tục gói bánh chưng tương truyền có từ đời vua Hùng và tác giả là Lang Liêu.
雄王既破殷军之后,国家无事,欲傳于子,乃会官郎,公子二十二人,谓曰:“我欲傳位,有能如我愿,欲珍甘美味,岁终荐于先王,以尽孝道,方可传位。”
于是诸子各求水陆奇珍之物,不可胜数。惟十八子郎僚母氏单寒微,先已病故,左右寡少,
难以应办。昼夜思想,梦寐不安。夜梦神人告曰:“天地之物所贵于人,无过米。所以养人,人能壮也。食不能厌,他物莫能先。当以糯米作饼,或方或圆,以象天
地之形,叶包其外,中藏美味,以寓父母生育之重。”郎僚惊觉,喜曰:“神人助我也。”遵而行之。乃以糯米择其精白,选用圆完无缺折者,淅之洁静,以青色叶
包裹为方形,置珍甘美味在其中,以象天地包藏万物焉。煮而熟之,故曰蒸饼。又以糯米炊熟,捣而烂之,捏作圆形以象天,故曰薄持饼。
初,王传位于郎僚,兄弟二十一人,分守藩篱,立为部党,以为藩国。迨后众将争长,各立木栅以遮护之,故曰栅、曰村、曰庄、曰坊,自此始。
Phiên âm:
hùng vương ký phá ân quân chi hậu, quốc gia vô sự, dục truyền vu tử,
nãi hội quan lang, công tử nhị thập nhị nhân, vị viết: “ngã dục truyền
vị, hữu năng như ngã nguyện, dục trân cam mĩ vị, tuế chung tiến vu tiên
vương, dĩ tẫn hiếu đạo, phương khả truyền vị。”
vu thị chư tử các cầu thủy lục kỳ trân
chi vật, bất khả thắng sổ。duy thập bát tử lang liêu mẫu thị đan hàn vi,
tiên dĩ bệnh cố, tả hữu quả thiểu, nan dĩ ứng bạn。 trú dạ tư tưởng, mộng
mị bất an。
dạ mộng thần nhân cáo viết: “thiên địa
chi vật sở quý vu nhân, vô quá mễ。 sở dĩ dưỡng nhân, nhân năng tráng dã。
thực bất năng yếm, tha vật mạc năng tiên。 Đương dĩ nhu mễ tác bính,
hoặc phương hoặc viên, dĩ tượng thiên địa chi hình, hiệp bao kỳ ngoại,
trung tàng mỹ vị, dĩ ngụ phụ mẫu sanh dục chi trọng。”lang liêu kinh
giác, hỉ viết: “thần nhân trợ ngã dã。” tuân nhi hành chi。nãi dĩ nhu mễ
trạch kỳ tinh bạch, tuyển dụng viên hoàn vô khuyết chiết giả, tích chi
khiết tĩnh, dĩ thanh sắc hiệp bao khỏa vi phương hình, trí trân cam mỹ
vị tại kỳ trung, dĩ tượng thiên địa bao tàng vạn vật yên。 chử nhi thục
chi, cố viết chưng bính。 hựu dĩ nhu mễ xuy thục, đảo nhi lạn chi, niết
tác viên hình dĩ tượng thiên, cố viết bạc trì bính。。。
(đoạn nối tiếp đã trình bày ở đầu bài viết)
sơ, vương truyền vị vu lang liêu, huynh
đệ nhị thập nhất nhân, phân thủ phiên ly, lập vi bộ đảng, dĩ vi phiên
quốc。 đãi hậu chúng tương tranh trường, các lập mộc sách dĩ già hộ chi,
cố viết sách, viết thôn, viết trang, viết phường, tự thử thủy。
Dịch nghĩa: Sau khi vua
Hùng đã phá xong giặc Ân, đất nước thái bình, nên muốn lo việc truyền
ngôi cho con, hội hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo: – Ta
muốn truyền ngôi cho người có thể làm vừa lòng ta, biết đem trân cam mỹ
vị đến dân cúng Tiên vương vào cuối năm để tròn đạo hiếu thì sẽ được
truyền ngôi cho.
Các công tử lo đi tìm các vị trân kỳ,
hoặc săn bắn, chài lưới, hoặc mua ở chợ, vụ được nhiều của ngon vật lạ
không biết bao nhiều mà kể. Duy có công tử thứ mười tám là chàng Liêu,
bà mẹ hàn vi đã lâm bệnh mà quá cố rồi, tả hữu lại ít người nên khó bề
toan tính, ngày đêm thao thức ăn ngủ không yên.
Đêm nằm mộng thấy thần nhân bảo rằng: –
Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là của để nuôi dân,
người ta ăn mãi không chán, không có vật gì đứng trước được; nếu lấy gạo
nếp hoặc gói làm hình tròn để tượng trời, hoặc gói làm hình vuông để
tượng đất, ở trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước hình trạng trời đất
bao hàm vạn vật, ngụ ý cái ơn trời đất phát dục vạn vật, như thế thì
lòng cha sẽ vui, tôn vị chắc được. Chàng Liêu kinh sợ tỉnh dậy, mừng
rằng “Thần minh giúp ta, ta nên bắt chước theo mà làm”. Chàng Liêu lựa
hột nếp nào trắng tinh, hoàn toàn không sứt mẻ đem vo cho sạch, rồi lấy
lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu cho chín,
gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho thực nhuyễn, nặn làm
hình tròn để tượng trưng hình trời, gọi là bánh dầy…
(đoạn nối tiếp đã trình bày ở đầu bài viết)
Rồi, vua Hùng truyền ngôi cho chàng
Liêu; hai mươi mốt anh em đều giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, bảo
vệ non sông. Về sau, họ hàng tranh nhau làm trưởng, mỗi người dựng rào
gỗ để che kín bởi vậy từ gọi là sách, là trại, là trang, là phường bắt
nguồn từ đấy.
Bánh chưng hình vuông có phải là truyền thống của người Việt hay không?
Trong đoạn trích sau cho thấy bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất: Đương dĩ nhu mễ tác bính, hoặc phương hoặc viên, dĩ tượng thiên địa chi hình,
hiệp bao kỳ ngoại, trung tàng mỹ vị, dĩ ngụ phụ mẫu sanh dục chi
trọng。”lang liêu kinh giác, hỉ viết: “thần nhân trợ ngã dã。Dịch nghĩa:
Nếu lấy gạo nếp hoặc gói làm hình tròn để tượng trời, hoặc gói làm hình
vuông để tượng đất, ở trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước hình trạng
trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý cái ơn trời đất phát dục vạn vật, như
thế thì lòng cha sẽ vui, tôn vị chắc được.
Đây chính là văn hóa Trung Hoa, phát xuất từ Đạo giáo. Trong sách Văn tâm điêu long文心雕龍có đoạn viết: 夫,玄黃色雜,方圓体分。日月疊璧,以垂麗:天之象;山川煥綺,以鋪理地之形。此蓋道之文也。Phiên âm:Phù! Huyền hoàng sắc tạp, phương viên thể phân. Nhật nguyệt điệp bích dĩ thùy lệ: thiên chi tượng. Sơn xuyên hoán ỷ, dĩ phô lý: địa chi hình. Thử cái đạo chi văn dã. Dịch nghĩa: Ôi! Từ lúc trời đất còn tạp với nhau, đến lúc trời đất
được phân ra thì: Mặt Trời và Mặt Trăng nối tiếp nhau như xâu chuỗi
ngọc, nhằm buông cái 麗Lệ (đẹp) xuống: đó là 象Tượng của Trời. Núi sông lộ
ra như những mảnh lụa chằng chịt rực rỡ, nhằm phô cái 理Lý (trật tự): đó
là 形Hình của Đất. Tất cả (cái Lệ, cái Lý đó) gọi là Văn của Đạo.
Điều này cho thấy phương viên
(tròn vuông), nhật nguyệt phiếm chỉ trời đất. Câu “dĩ tượng thiên địa
chi hình” trong Lĩnh Nam Chích Quái mượn ý từ “thiên chi tượng” và “địa
chi hình” của Đạo giáo. Như thế đã rõ, khái niệm vuông tròn cho bánh
chưng, bánh dầy để biểu trưng cho trời đất là văn hóa Trung Hoa.
Vậy, bánh chưng ngày xưa của người Việt có hình gì?
Ngày nay, ở Phú Thọ – nơi đất Tổ – có
bánh chưng hình trụ, giống như bánh tét; còn gọi là bánh chưng tày hay
bánh tày. Theo giáo sư Lê Văn Lan, bánh hình trụ là hình thức nguyên
thủy của bánh chưng. Bởi vì người Việt xưa theo tín ngưỡng phồn thực.
Bánh chưng tày có hình giống như sinh thực khí của người nam. Tại làng
Thanh Đình (sát Đền Hùng, Phú Thọ), vào ngày lễ hội, còn giữ phong tục
từ thời Hùng Vương, đó là “đâm chày vào oa[1]”
để cầu sự thịnh vượng, sự sinh sôi nảy nở. Chữ tày có gốc từ chữ chày.
Bánh tày có nguồn gốc từ đó. Còn sự tích bánh dầy bánh chưng mới có từ
đời nhà Trần nên bị ảnh hưởng văn hóa của Trung Hoa. Chuyện đời gẫm đến
chuyện đạo, có nhà thờ xây bàn thờ hình tròn và cấu trúc cung thánh theo
kiểu “trời tròn đất vuông” và cho đó là bản sắc Việt thì thật là không
ổn.
Tục treo tranh tết và câu đối tết
Câu
đối là một trong những tinh hoa của văn hóa Việt, thâm thúy về ý, trau
chuốt về lời, đẹp vì sự đối điệp. Từ lâu, cách thức chơi câu đối được
phổ biến trong dân gian và trở thành một phong tục đẹp của dân tộc. Câu
đối phát xuất ở Trung Hoa nhưng không rõ bắt đầu từ bao giờ. Xa xưa, khi
đón tết, người Trung Hoa thường tạc những cái bùa treo nơi cửa với ý
nghĩa là ngăn chặn tà ma. Dần dà, những cái bùa kia được chuyển thành
chữ viết và hình vẽ để tiện cho việc trang hoàng. Bùa bằng chữ viết lâu
dần phát triển thành hoành phi, câu đối. Bùa bằng hình vẽ dần dần biến
thành tranh treo ngày tết, tựa như tranh làng Hồ hay tranh hàng Trống ở
nước ta. Trong tranh vẽ ấy vẫn có một hai câu để nói lên ý của tác giả
muốn gửi gắm. Vd. Tranh Tứ Quý:
Bộ tranh Tứ Quý, Đông Hồ, có 4 bức tranh
với chữ Hán tương ứng: tranh Nhân Nghĩa 仁義 vẽ hình đứa bé ôm con cóc,
phía sau có mấy trái đào; tranh Lễ Trí 礼智 vẽ hình đứa bé ôm con rùa,
phía sau có đóa hoa sen; tranh Vinh Hoa 榮花 vẽ hình đứa bé ôm con gà,
phía sau có đóa hoa súng; tranh Phú Quý 富貴 vẽ hình đứa bé ôm con vịt,
phía sau có mấy trái đào.
Câu đối du nhập vào nước ta trong thời
bị Bắc thuộc, ít nhất từ đời nhà Đường, vì lúc ấy người Việt bị ép học
chữ Hán. Qua nghiên cứu, người ta nhận thấy dáng dấp câu đối xuất hiện
trong bài phú cổ Bạch vân chiếu xuân hải 白雲照春海 của
Khương Công Phụ 姜公輔, tự Khâm Vân. Ông là người xã Định Công, huyện An
Định, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Khương Công Phụ du học ở Trung Hoa, thi
đỗ Tiến sĩ (thời ấy người Việt phải sang Trung Hoa để tham dự khoa cử),
làm quan đến chức Gián nghị Đại phu Đồng trung thư Môn hạ Bình chương
sự, dưới đời vua Đường Đức Tôn (780-804). Đến đời vua Đường Thuận Tôn
(805-806), ông lĩnh chức Tuyền châu Thứ sử được ít lâu thì mất. Vua Lê
Cảnh Hưng phong cho Khương Công Phụ làm Thượng đẳng phúc thần. Sở trường
của ông là những bài phú. Chẳng hạn bài phú Bạch vân chiếu xuân hải
(Mây trắng rọi biển xuân) không chỉ để tả cảnh trời, biển, gió, mây mà
trình bày quan niệm của đạo Lão về vũ trụ, với lời văn nhẹ nhàng thanh
thoát, với hình thức mang dáng dấp đối điệp:
Bạch vân dong dong, diêu duệ hồ xuân hải chi trung;
Phân vân tằng Hán, kiểu khiết trường không.
Tế ảnh sâm si, tạp vi minh ư nhật vực;
Khinh văn lân loạn, phân quýnh hoảng ư tiên cung.
Dịch nghĩa:
Mây trắng mênh mông, lay động hòa giữa biển xuân;
Cảnh từng lớp nước chảy trên sông Hán, sáng một khoảng dài.
Bóng ảnh so le, thành vầng sáng quanh mặt trời;
Vẻ đẹp nhẹ nhàng biến động, chia đều rực rỡ cõi tiên.
Trong
khoa cử xưa, có phần thi văn biền ngẫu騈耦, do đó sĩ tử phải học làm câu
đối. Ở Việt Nam, lâu dần, cách làm câu đối lan rộng ra từ tầng lớp trên
xuống tầng lớp dưới, được dân gian hóa thành một thú chơi tao nhã, thành
một nét đẹp văn hóa của dân tộc. Không phải nước nào chịu ảnh hưởng chữ
Hán cũng có sự phát triển tốt về câu đối. Những nước như Hàn quốc, Nhật
Bản có cấu tạo ngữ âm dạng đa âm tiết và không có thanh điệu nên câu
đối không phát triển mạnh. Ngược lại, việc câu đối được phổ biến ở nước
ta còn liên quan đến cấu tạo ngữ âm dạng đơn âm tiết và có thanh điệu,
tương tự như tiếng Hán. Tuy nhiên, tiếng Hán phổ thông có 4 thanh điệu
(dương bình, âm bình, thượng thanh, khứ thanh), trong khi ấy tiếng Việt
có 6 thanh điệu (ngang, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng), sắc âm của tiếng
Việt phong phú hơn tiếng Hán.
Một số câu đối Tết:
Thiên tăng tuế nguyệt, niên tăng thọ / Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường. ‖ Dịch nghĩa: Trời thêm năm tháng, tuổi thêm thọ / Xuân đầy trời đất, phúc đầy nhà.
Tân niên, hạnh phúc bình an tiến / Xuân nhật, vinh hoa phú quý lai. ‖ Dịch nghĩa: Tết mới, hạnh phúc bình an đến / Ngày Xuân, vinh hoa phú quý về.
Giáp tý trùng tân tân giáp tý. / Xuân thu kỷ độ độ xuân thu.‖ Dịch nghĩa: Giáp tý vừa qua, qua giáp tý. / Xuân thu mấy độ, độ xuân thu.
Xuân đáo chu thiên trào thực khí / Thời lai quán địa mộc vân ba. ‖ Dịch nghĩa: Chào xuân mới, nơi nơi tràn khí ấm / Gặp thời hay, chốn chốn rộ hoa xuân.
Môn đa khách đáo thiên tài đáo / Gia hữu nhân lai vạn vật lai. ‖ Dịch nghĩa: Cửa nhiều khách đến nhiều tiền đến. / Nhà có người vào lắm vật vào.
Sơn thủy thanh cao xuân bất tận / Thần tiên lạc thú cảnh trường sinh. ‖ Dịch nghĩa: Phong cảnh thanh cao xuân mãi mãi. / Thần tiên vui thú cảnh đời đời.
Tổ tôn công đức thiên niên thịnh / Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương. ‖ Dịch nghĩa: Công đức tổ tông nghìn năm thịnh. / Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay.
Xuân như cẩm tú, nhân như ngọc. / Khách mãn gia đình, tửu mãn tôn. ‖ Dịch nghĩa: Xuân như cẩm tú, người như ngọc. / Khách chật trong nhà, rượu hết chung.
Phúc sinh lễ nghĩa gia đường thịnh. / Lộc tiến vinh hoa phú quý xuân. ‖ Dịch nghĩa: Phúc đem lễ nghĩa trong nhà thịnh. / Lộc nảy vinh hoa phú quý xuân.
Niên niên như ý xuân / Tuế tuế bình an nhật. ‖ Dịch nghĩa: Năm năm xuân như ý / Tuổi tuổi ngày bình an.
Nhập môn tân thị kinh luân khách / Mãn tọa dai đồng cẩm tú nhân. ‖ Dịch nghĩa: Vào cửa toàn khách kinh luân / Ngồi chơi toàn người cẩm tú.
Niệm tiên tổ, duật tu quyết đức / Khải hậu nhân, trường phát kỳ tường. ‖ Dịch nghĩa: Nhớ tổ tiên, đẹp điều nhân đức / Tin cháu con bền sự lạ hay.
Thảo ốc an cư, tích kim quang đắc đức / Bố y tùy phận, cầu phúc đức lai tài. ‖ Dịch nghĩa: Nhà cỏ ở yên, tích kim quang được đức / Áo vải an thân, cầu phúc đức đến tài.
Thiên địa vô tư, tích thiện tự nhiên thiện / Thánh hiền hữu giáo, tu thân khả dĩ vinh. ‖ Dịch nghĩa: Trời đất vô tư, làm điều thiện tự nhiên được thiện / Thánh hiền có dạy, lo tu thân có thể được vinh.
Ðịa sinh tài, thế nghiệp quang huy / Thiên tứ phúc, gia thanh hiện thái. ‖ Dịch nghĩa: Ðất sinh tài nghiệp đời sáng láng / Trời ban phúc, nhà tiếng tốt tươi.
Phúc mãn đường, niên tăng phú quý / Ðức lưu quang, nhật tiến vinh hoa. ‖ Dịch nghĩa: Phúc đầy nhà, năm thêm giàu có. / Ðức ngập tràn, ngày một vinh hoa.
Trúc bảo bình an, tài lợi tiến / Mai khai phú quý, lộc quyền lai. ‖ Dịch nghĩa: Trúc giữ bình yên, thêm tài lợi. / Mai khai phú quý, lại lộc quyền.
Tiên tổ phương danh lưu quốc sử / Tử tôn tích học hiển gia phong. ‖ Dịch nghĩa: Tiên tổ danh thơm ghi quốc sử / Cháu con tích học rạng gia phong.
Đa lộc, đa tài, đa phú quý / Đắc thời, đắc lợi, đắc nhân tâm. ‖ Dịch nghĩa: Nhiều lộc, nhiều tài, nhiều của cải / Gặp thời, được lợi, được nhân tâm.
Ngoài cửa mừng Xuân nghênh Ngũ Phúc / Trong nhà chúc Tết hưởng Tam Ða.
Tối ba mươi, khép cánh càn khôn ních
chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới / Sáng mùng một, lỏng theo tạo hóa, mở
toang ra cho thiếu nữ rước xuân về.
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng
đạp thằng Bần ra cửa./ Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông
Phúc vào nhà. (cụ Nguyễn Công Trứ)
Ngày Tết còn nhiều phong tục nữa, như:
trưng mâm ngũ quả, xin chữ, xuất hành, hái lộc, xông nhà, khai bút đầu
xuân, mừng tuổi… Những phong tục ấy đa số bị ảnh hưởng bởi văn hóa Trung
Hoa. Song song đó có những trò chơi trong hội hè như: hát Quan họ, đánh
đu, múa lân, thi đánh vật, thi chèo thuyền…
Hiện nay có một số ý kiến muốn rút ngày
nghỉ tết âm lịch còn lại hai ngày, tăng ngày nghỉ tết Tây lên đặng dễ
“hội nhập văn hóa”. Đó quả là “tối kiến”, vì mỗi dân tộc có một nền văn
hóa riêng. Nếu tất cả đều “Tây hóa” thì nhà thơ Vũ Đình Liên
(1919-1996), tác giả bài thơ Ông Đồ, chắc phải gửi “tin nhắn” cho hạ
giới rằng: NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ, HỒN Ở ĐÂU BÂY GIỜ!
Sài Gòn, ngày 26 tháng 1 năm 2013
HẾT
[1] Oa nghĩa là lỗ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét