Thứ Tư, 29 tháng 1, 2014

DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH (ngày mồng ba tết)

DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH
Lc 2,22-40

CHÚA GIÊSU: QUÀ TẶNG TÌNH YÊU CAO QUÍ
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh. Theo luật Do Thái, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Do đó, cha mẹ con trẻ phải chuộc lại đứa bé tùy theo khả năng của gia đình mình hoặc một con chiên tinh tuyền hoặc một cặp bồ câu. Những của lễ này được dùng dâng hiến cho Thiên Chúa thay thế các em.

MẸ MARIA VÂNG THEO LỀ LUẬT:

Như mọi người dân Do Thái, Mẹ Maria cũng hoàn toàn vâng theo lề luật. Vì thế, khi Chúa Giêsu đã đúng ngày luật định, Mẹ Maria và thánh cả Giuse đã đưa Chúa Giêsu lên đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa:” Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”( Lc 2,23 ). Theo tục lệ, của lễ dâng tiến cho Chúa thay thế con trẻ là một cặp chim gáy hay một cặp bồ câu non ( Lc 2,24). Tuy nhiên, đối với Mẹ Maria, Mẹ ý thức rất rõ ràng dâng Chúa là vĩnh viễn vì  đó là khởi đầu cho lễ hy sinh mà Chúa Giêsu sẽ hoàn tất trên núi  Canvê để cứu chuộc nhân loại.

THÁNH LỄ HÔM NAY MANG HAI Ý NGHĨA:

Nhìn bề ngoài, chúng ta thấy Chúa vâng phục lề luật và cha mẹ của Người làm theo luật dậy, nhưng thực ra Chúa Giêsu đến gặp dân của Người. Vì thế, ngay tại Giêrusalem, cụ già Simêon, một người công chính và nữ ngôn sứ Anna, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đã tới đền thánh và chính Simêon đã được linh hứng sẽ không chết trước ngày được gặp Đấng Cứu Thế. Do đó, khi thấy Chúa Giêsu, Thánh Thần soi sáng, các Ngài đã nhận ra con trẻ mà các Ngài đang ẵm trên tay, đang thấy ở trước mặt lại chính là Chúa của mình, đồng thời các Ngài rất vui sướng loan báo cho những người khác. Thánh lễ dâng Chúa vào đền thánh còn có một ý nghĩa khác nữa, Chúa được Chúa Thánh Thần công bố là vinh quang của Israen và là ánh sáng soi đường cho muôn dân, muôn nước trên mặt đất này. Chính vì thế, khi người Kitô hữu quy tụ trong nhà thờ do tác động của Chúa Thánh Thần, chắc chắn dân Chúa sẽ gặp Người, sẽ nhận ra Người lúc bẻ bánh, trong khi chờ đợi Người đến trong vinh quang. Qủa thực, Chúa Giêsu là quà tặng cao quí nhất Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại.

Lạy Thiên chúa toàn năng hằng hữu, Con Một Chúa đã mang kiếp người phàm và hôm nay được tiến dâng trong đền thánh. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tâm hồn chúng con cũng nên trong sạch hầu xứng đáng dâng mình trước thánh nhan( Lời nguyện nhập lễ, lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh ).

Ngày mồng ba Tết: Có làm mới có ăn

Ngày mồng ba Tết: Có làm mới có ăn


14012602VRNs (29.01.2014) – Đồng Nai - Cuộc sống luôn đòi chúng ta chọn lựa. Chọn lựa để vươn lên. Chọn lựa để vượt ra khỏi những gì bình thường mà chọn cách sống khác hơn. Có chọn lựa nên có đổi thay. Chính những cái đổi thay khiến người ta ngại chọn lựa bởi phải sống khác hơn. Người ta vẫn cứ “an phận thủ thường” là chắc ăn.
        Chuyện kể rằng: có hai con vật lừa và ngựa sống với nhau. Một ngày kia, có một tay cao bồi xuất hiện và hỏi hai con vật: “Trong hai ngươi, ai là kẻ muốn theo ta đi thám hiểm thế giới. Ta không hứa hẹn một cuộc sống no đủ như ở cái chuồng bé tẹo này. Nhưng ta hứa hẹn một cuộc sống đầy thú vị vì được làm chủ chính mình. Và nếu cố gắng đủ, thì có thể sẽ có được một cuộc sống dư giả gấp nhiều lần cuộc sống này.”
        Con lừa – một trong hai con vật – liền kêu lên: “Ôi, tôi không đi đâu. Dại gì mà đánh đổi cuộc sống an toàn và ổn định này, để lấy một tương lai không biết trước chứ. Hay là ông muốn dụ tôi đi để có người cho ông cưỡi, có người để chết chung với ông? Tôi không có ngu đâu nhé.
        Con ngựa – con vật còn lại – thì rất háo hức trả lời: “Tôi! Tôi! Tôi muốn đi và muốn khám phá. Tôi chán cuộc sống gò bó và tẻ nhạt này lắm rồi.” Nói xong, nó theo người cao bồi bước ra khỏi cái chuồng nhỏ và đi mãi, đi mãi về phái chân trời.
        Một ngày nọ, khi đã già, con lừa gặp lại con ngựa khi nó quay trở về cái chuồng nhỏ. Mừng rỡ, con lừa reo lên:
        – A, anh ngựa, anh đã về đấy ư. Lâu quá rồi nhỉ, chúng ta đã già cả rồi.
        – Đúng vậy, chúng ta già hết cả rồi. Tôi cũng đã mệt mỏi nên không muốn phiêu lưu nữa nên quyết định về thăm anh. Cuộc sống anh thế nào rồi? – Ngựa hỏi
        – Cũng vẫn vậy thôi. Làm việc chăm chỉ và được no đủ. Nhưng tôi đã già rồi, nên cũng không còn làm được nhiều nữa. Cũng may ông chủ thương tình nên vẫn cho tôi ăn. – Lừa nói – Vậy còn những chuyến phiêu lưu của anh thì sao?
        – Ồ, nó thật thú vị. Tôi đã được đi đến những miền đất lạ, nơi nắng cháy và khô cằn. Tôi đã băng qua những vùng chiến sự và những miền thiên tai hoành hành, có lúc tưởng chết đi được. Nhưng sau những cố gắng, tôi cũng được nếm trải sự hạnh phúc khi được tự do chạy trên cánh đồng đầy cỏ ngọt và được học hỏi những điều kì lạ. – Ngựa kể với một niềm tự hào.
        Thực ra, con ngựa và con lừa đều phải đi. Con ngựa thì đi quanh thế giới. Con lừa thì chỉ quanh quẩn cái cối xay. Con ngựa thì tự do và có trách nhiệm về bản thân mình. Con lừa thì bị cột chặt vào cối xay và cũng chẳng có trách nhiệm gì về mình vì thiếu tự do. Con lừa an phận nên sống vật vờ, sống nhờ lương thực người khác ban cho. Con ngựa luôn sống cho chính mình để được hưởng thành quả do chính mình làm nên.
        Cha ông ta vẫn nói “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta”. Con lừa vì không dám thay đổi, không cầu tiến, an phận nên chỉ sống nhờ lòng thương xót hay bố thí của người khác. Còn con ngựa biết vươn lên, biết sống có trách nhiệm với chính mình nên nó được hưởng niềm vui do chính công sức lao động của nó làm ra.
        Cuộc đời con người cũng chỉ có của ăn của để khi biết vượt ra khỏi sự lười biếng để dấn thân vào cuộc sống kiếm tìm miếng cơm manh áo. Không có cuộc kiếm tìm nào mà không đòi phải hy sinh, phải nỗ lực. Một cuộc kiếm tìm càng khó, càng đòi nhiều công sức thì thành quả càng to lớn và giá trị. Và giá trị của một con người cũng hệ tại ở việc mình đã làm, đã cống hiến gì cho gia đình, cho xã hội. Con người càng cống hiến nhiều càng có giá trị trong gia đình và xã hội.
        Bên cạnh sự nỗ lực bản thân, niềm tin ky-tô giáo còn mời gọi chúng ta tin vào sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa luôn hoạch định cho cuộc đời chúng ta, nhưng liệu chúng ta có dám mạo hiểm bước theo Chúa hay không? Sự thành công của chúng ta còn tùy thuộc vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cha ông ta cũng bảo “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại thiên”. Lời Chúa cũng từng nhắc nhở chúng ta: “Nếu Chúa chẳng xây nhà , thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.
        Thế nên, ngày đầu năm mới chúng ta hướng về Đấng tạo thành để tạ ơn về một năm “mưa trời ân phúc” đã ban xuống cho trần gian. Chúng ta cũng phó dâng một năm mới cho lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa là Đấng đầy quyền năng và đầy lòng thương xót chúc lành cho một năm mới với bao dự định, công việc được toàn vẹn như ý. Xin Chúa Xuân ở lại nơi từng gia đình để niềm vui được kéo dài vô tận trong suốt ngày sống. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

NGÀY MỒNG BA TẾT GIÁP NGỌ (02/02/2014)

TRÁCH NHIỆM  VÀ GIÁ TRỊ CỦA LAO ĐỘNG CON NGƯỜI
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN NĂM A
NGÀY MỒNG BA TẾT GIÁP NGỌ  (02/02/2014)
[St 2, 4b-9.15; Cv 20,32-35; Mt 25,14-30]  

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Nếu chúng ta suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy ý nghĩa thâm sâu và phong phú của Ba Ngày Tết:
Ngày Mồng Một Tết, chúng ta hướng mắt, hướng lòng lên Thiên Chúa để cầu xin Người ban cho chúng ta ơn Bình An, vì Thiên Chúa là Chúa của thời gian và vì mọi sự tốt lành đều xuất phát từ Thiên Chúa.   
Ngày Mồng Hai Tết, chúng ta nhớ đến tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những bậc sinh thành và dưỡng dục chúng ta trong thế giới này, để tỏ lòng hiếu thảo của những người thụ ân.  
Còn Ngày Mồng Ba Tết, chúng ta nhìn vào chính cuộc sống hiện tại của mình để xem ý nghĩa và giá trị của lao động mà Thiên Chúa giao phó, ủy thác cho chúng ta trong Năm Mới là như thế nào để chúng ta chu toàn cho đẹp lòng Thiên Chúa và hữu ích cho chính mình và tha nhân.  
Vậy hôm nay chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa mà suy niệm trong lòng và áp dụng trong cuộc sống ngay từ ngày Đầu Năm Giáp Ngọ này.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (St 2, 4b-9.15): Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn E-đen để con người canh tác và coi sóc đất đai.
4 Ngày Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, 5 chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Đức Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. 6 Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất. 7 Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. 8 Rồi Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, 5 chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.
9 Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, 5 chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác.
15 Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai.
<h3 style="text-align:justify"> </h3>
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Cv 20, 32-35): Những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, chính đôi tay này tự cung cấp lấy.
32 Khi ấy ông Phao-lô ngỏ lời cùng các kỳ mục trong cộng đoàn Ê-phê-xô rằng: "Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến.
33 "Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. 34 Chính anh em biết rõ  những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. 35 Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận."

2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Mt 25,14-30):  Ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây.
14 Bấy giờ Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe dự ngôn này: "Người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. 15 Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, 16 người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. 17 Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. 18 Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.  19 Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. 20 Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây." 21 Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm ! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!" 22 Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây." 23 Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !" 24 Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. 25 Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!" 26 Ông chủ đáp: "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, 27 thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! 28 Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. 29 Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. 30 Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng."

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- là Đấng đã dựng nên trời đất muôn loài muôn vật và loài người và đã giao phó ủy thác cho loài người sứ mạng và trách nhiệm quản lý công trình Tạo Dựng của Người (bài đọc 1).
- là Đấng đã chọn và làm cho Phao-lô thành một tấm gương sáng ngời trong lao động và giúp đỡ người khác, xứng danh là môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô
- là Đấng đã giao cho mỗi người một số nén vàng nén bạc (là khả năng, điều kiện) để họ sinh lời và nhận được lời chúc phúc của Thiên Chúa.

3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là chúng ta phải trở nên những nhà quản lý hiểu và làm theo ý Chủ  và trở nên những người đầy tớ tài giỏi và trung thành của Thiên Chúa,.  

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Chúa Cha quyền năng và yêu thương trong công trình tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người.
Sống với Thiên Chúa là Đấng đã chọn và làm cho Phao-lô.   
Sống với Thiên Chúa là Đấng đã giao phó cho con người trách nhiệm quản lý công trình tạo dựng của Người và đã giao cho mỗi người những nén vàng nén bạc để chúng ta sinh lời.  

4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là trở thành những đầy tớ tài giỏi và trung thành trong quản lý tài sản của Thiên Chúa. Cách cụ thể là làm sinh lời những nén vàng nén bạc mà Thiên Chúa đã giao. 

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ)
5.1 "Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người sống trên thế gian này để họ ý thức được trách nhiệm và giá trị của bản thân mà Thiên Chúa đã phú ban.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 
5.2  “Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách đặc biệt cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và toàn thể giáo dân để mọi  thành phần Dân Chúa biết sống cho đi theo gương và lời dậy của Chúa Giê-su Ki-tô.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 
5.3  “Người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ biết trân trọng và phát huy những ơn huệ mà Thiên Chúa đã trao phó cho mỗi cá nhân và cho cộng đoàn.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 
5.4 “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người đã cố gắng trong việc quản lý tốt công trình tạo dựng của Thiên Chúa và làm sinh lời những nén vàng nén bạc hầu vinh danh Thiên Chúa và ích lợi cho các linh hồn.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. 

Ngày Mồng hai Tết: Sống Chữ Hiếu

Ngày Mồng hai Tết: Sống Chữ Hiếu


14012601VRNs (28.01.2014) – Đồng Nai - Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: ” Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ? “. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện “.
        Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.
        Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: ” Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền ?”.
        Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…
        Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
        Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.
Con đi khắp vạn nẻo đường
Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền
Người con yêu quý nhất trên đời
Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu
        Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:
Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy
Núi rất cao và biển rất tuyệt vời
Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở
Và trái tim nhân ái làm người
        Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ
Phong sắc hồng hào tâm thể khang an
Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng
Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ
Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể
Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây
Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây
Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay
        Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp  yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.
        Xin Chúa làm chủ thời gian xin ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Hãy ký thác đường đời cho Chúa (thánh lễ Mồng Một Tết)

Hãy ký thác đường đời cho Chúa (thánh lễ Mồng Một Tết)

SUY NIỆM THÁNH LỄ MỒNG MỘT TẾT NĂM GIÁP NGỌ
Mt 6, 25-34


“Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”
Chúng ta vừa bước sang Năm Mới, năm Giáp Ngọ. Quý Tỵ qua đi, Giáp Ngọ đã đến. Rắn Quý Tỵ  đã bàn giao cho Ngựa Giáp Ngọ.
Ngựa là loài động vật được con người quan tâm đến nhiều nhất vì những đóng góp to lớn trong việc mưu sinh và sự phát triển của con người. Trong thời bình ngựa giúp chúng ta cày bừa, chuyên chở hàng hóa, kéo xe, chở người, chuyển nhanh những thư tín, công văn đến nơi cần đến, vì ngựa là phương tiện di chuyển nhanh nhất thời bấy giờ và tạo những niềm vui cho công chúng như đua ngựa, đi săn, cưỡi ngựa thi bắn tên, làm xiếc thú. Ngựa còn cho ta thịt để ăn và cúng tế, xương nấu cao ngựa làm thuốc, giúp các nhà y học chế ra các loại huyết thanh trị bệnh, huyết thanh chống nọc rắn đã cứu sống vô vàn người bệnh. Ngựa là vật thường được dùng nhiều nhất trong các cuộc chiến tranh, càng được nổi tiếng nhiều hơn vì những công lao của ngựa gắn liền với những chiến công hiển hách của con người. Ngựa được sử dụng trong các đội kỵ binh, khinh binh, thám mã, truyền tin, tải lương, tải đạn, tải thương, kéo pháo. Ngựa thì có ngựa thồ, ngựa kéo xe và ngựa dùng để cưỡi, loại ngựa cưỡi có con đi mỗi ngày vài trăm km nên được gọi là thiên lý mã.  Ngựa có ngựa bạch, ngựa ô, ngựa hồng, ngựa tía, ngựa vằn, ngựa xám, ngựa đỏ (Xích Thố mã)…
Việt Nam ta trong ca dao, tục ngữ và thành ngữ, người ta nói nhiều đến Ngựa, dùng Ngựa để ví von. Chẳng hạn như khi bàn về sự thẳng thắn thì nói : “Thẳng như ruột Ngựa”; về sự bất lương: “Đầu Trâu, mặt Ngựa”; về tình đoàn kết: “Một con Ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”; về sự phú quý: “Lên Voi, xuống Ngựa”; về sự không trung thành: “Thay Ngựa, đổi chủ”; về sự tham lam: “Được đầu Voi, đòi đầu Ngựa”; khi nói về sự bền chí Ngạn ngữ Pháp có câu : “Muốn đi xa phải giữ sức Ngựa” ; về sự lãnh đạo: “Cầm cương, nảy mực”; về sự cẩn trọng: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” (một lời nói ra, bốn Ngựa đuổi không kịp)…
Cho dù Năm Ngựa hay trâu thì cả tháng nay, mọi người đã sửa soạn ăn Tết, ngày Tết, ai cũng có cái cảm tưởng là có cái gì mới vì ai cũng dùng chữ năm mới. Năm mới mọi cái đều phải mới.
Từ mấy hôm nay, chúng ta đã đi chúc tết nhau, thường người dướt tết người trên : con cháu tết ông bà cha mẹ, em tết anh chị, công nhân viên tết thủ trưởng. Kèm theo món quà, tượng trưng cho tấm lòng thơm thảo, lại có những lời chúc thật tốt đẹp cho Năm Mới.
Ngày Tết, người ta chúc mừng nhau:                          
. Phúc, lộc, thọ.
. Phú, qúi, thọ, khang, ninh.
. Đa tử, đa tôn, đa phú qúi.
. Thăng quan tiến chức
. Buôn may bán đắt, nhất bán vạn lợi, một vốn bốn lời.

Đối với các cha chúng ta thường chúc:
. Thánh thiện,
. Khôn ngoan,
. Khỏe mạnh.

Thi sĩ Trần tế Xương lại chúc :
Bắt chước ai ta chúc mấy lời :
Chúc ai sống ra cái con người.

Người Việt Nam còn có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân trước nhất sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Tựu chung lại là mong có được mọi sự may mắn tốt lành.
Những câu chúc mà chúng ta trao cho nhau trong những ngày đầu xuân. Tất cả đều muốn hướng về một tiền đồ thật sáng lạn trong tương lai, đi kèm với một đời sống vật chất thật phong phú. Xem ra, tất cả đều hướng về những của cải chóng qua đời này và những thành quả chỉ dừng lại ở trần thế. Chúa mới chính là gia nghiệp, là cùng đích mà con người cần phải kiếm tìm và đó cũng chính là sự tồn tại của con người.

“Các con chớ áy náy về ngày mai”. Chúa luôn muốn mọi người nghĩ đến cùng đích của cuộc sống mình. Tương lai mỗi người đều nằm trong tay quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa.Với tình thương và lòng nhân hậu của Ngài, chúng ta luôn tin tưởng và phó thác, bởi Ngài là người Cha luôn muốn những điều tốt nhất cho con cái. Lo lắng, bận rộn, tất bật làm việc để tích luỹ và để bảo đảm cho tương lai..tất cả đều tốt và cần thiết, nhưng cũng nên nhớ một điều “nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”.Hãy làm tốt bao nhiêu có thể, những bổn phận và trách nhiệm của mình, phần còn lại hãy phó thác trong tay quan phòng của Thiên Chúa.Ngài sẽ hoàn tất những gì còn lại

Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới. Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài”( Tv 66, 2-3 ).

Từ cái giây phút linh thiêng khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới. Chúng ta họp nhau đâu để cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới qua những lời chúng ta đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, chúng ta quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Vậy thì trong thánh lễ tân niên nay, chúng ta hãy đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Bởi tất cả mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài như lời thánh vịnh viết: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”.
Ngựa được đưa vào 12 con giáp : Tý (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Cọp), Mẹo (Mèo), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó), Hợi (Heo). Nếu ghép vào can – chi thì sẽ có các năm Giáp Ngọ, Bính Ngọ, Mậu Ngọ, Canh Ngọ và Nhâm Ngọ. Ngọ thuộc cực dương vì 12 giờ trưa là giờ Ngọ, tháng 6 là tháng Ngọ cây cối phát  triển nhanh.
Người tuổi Ngọ rất tự tin, khá thông minh, tính phóng khoáng, sôi nối, nhiệt tình, tự do ứng biến tốt, thích những công việc có tính thay đổi, tự do; ít chịu gò bó… Vì thông minh nên thành công cũng nhiều nhưng vì thích tự do nên công việc thường bấp bênh và thất bại cũng lắm.
Tết con Ngựa đã đến. Hy vọng Năm Mới Giáp Ngọ sẽ có nhiều đổi mới để con người, tổ quốc và Giáo hội Việt Nam được phát triển nhanh hơn.
Cầu chúc mọi người Năm Mới nhiều sức khỏe, khang an thịnh vượng, phát đạt, thăng tiến về tinh thần cũng như vật chất nhờ hồng ân Thiên Chúa tặng ban. Amen.
Linh mục Antôn Nguyễn Văn Độ

Thánh Tôma Aquinô (ngày 28-01)

Thánh Tôma Aquinô (ngày 28-01)

Ngày 28-01
Thánh TÔMA AQUINÔ - Linh mục Tiến sĩ (1225-1274)
Tại vương quốc Naples, người vợ quí phái của lãnh chúa Aquinô được vị tu sĩ Thánh thiện cho biết, là bà sẽ rất đỗi vui mừng vì con trẻ bà mong đợi sẽ sáng chói với sự hiểu biết khôn sánh, Người con ấy là Tôma. Ngài sẽ là một vị thánh trong hàng ngũ các thánh. Toma sinh tại lâu đài Roccasecca, gần Naples khoảng năm 1225.
Được sáu tuổi cha nàng dẫn tới tu viện Montê Cassinô. Con trẻ được dâng hiến đã hỏi: - Thiên Chúa là gì ?
Và các tu sĩ ngạc nhiên vì thấy chìm đắm trong các suy ngắm quá sớm và sáng suốt ấy.
Lúc mười tuổi, Ngài được gửi tới đại học Naples. Các giáo sự đã khám phá ra dưới dáng vẻ nhút nhát của Ngài, một trí khôn thượng thặng và một đời sống siêu nhiên sáng ngời với các đức tính hiền hòa, trong trắng và đức ái của Ngài. Trong những kỳ nghỉ tại lâu đài cùng cha mẹ, Ngài gắng sức trợ giúp người nghèo. Điều này làm cho chủ lâu đài phiền trách Ngài. Tình yêu của Ngài đối với người mẹ thật bao la và đã tạo nên mối dày vò suốt đời.
Khi chưa tốt nghiệp đại học, Ngài đã quyết định vào dòng Đa-minh. Lúc ấy dòng thành lập chưa được ba năm. Gia đình Ngài rúng động với ý tưởng một con người quý phái như vậy lại trở thành một tu sĩ dòng ăn xin. Ngoài ra họ còn mong mỏi rằng: một ngày kia, Ngài sẽ còn làm điều gì đó, để phục hồi vận mệnh của họ bằng việc trở lại làm tu viện trưởng Montê Cassinô. Nghe được tin, các anh của Ngài đang là sĩ quan trong quân đội, đã giận dữ. Họ bắt Ngài trên đường đi Roma và giam Ngài dưới chân tháp của lâu đài. Gia đình gắng công vô ích khi nài nỉ, đe dọa và quyến rũ Tôma đổi ý.
Các anh Ngài còn dùng tới một cô gái làng chơi để hại người nữa. Nhưng cương quyết, Tôma đã dùng cây củi cháy để xua đuổi nàng, rồi dùng than củi này vẽ lên tường hình thánh giá. Quỳ xuống trước hình thánh giá, Toma với nhiệt tâm mạnh mẽ hơn bao giờ hết, lập lại lời hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa. Được hai năm, các chị Ngài đã cảm động trước sư cương nghị và những khổ cực của Ngài, đã giúp Ngài trốn qua cửa sổ bằng một cái thúng. Các tu sĩ Đaminh đợi Ngài dưới chân tháp.
Tôma khấn dòng ở Naples, rồi đi bộ từ Roma tới đại học Colonia.
Trong môi trường học thức ưu việt này, Ngài cố dấu kín các bước tiến khác thường của mình như Ngài đã che kín vinh dự gia đình. Không khi nào Ngài đã để cho người ta ngờ rằng mình là cháu của hoàng đế Barberoussa và là bà con của vua Frêdêric II cả. Khiêm tốn là bà hoàng của lòng Ngài. Ngày kia một bạn học giảng bài cho Ngài. Toma phải là bậc thầy của anh, đã tiếp nhận bài học với lòng biết ơn. Đó là thói câm lặng của Toma. Vì bình dị nên Ngài bị coi là đần độn. Người ta gọi chàng trai to con này là con bò câm.
Nhưng thày Albertô đã coi Ngài như một thiên tài và tuyên bố: - Con bò nầy sẽ rống lớn, đến nỗi những tiếng rống của nó sẽ vang dội khắp thế giới.
Người sinh viên tài ba này đã tỏ ra dễ dạy như một trẻ em. Tại phòng ăn, vị chủ chăn lầm lẫn, đã bắt Ngài sửa lại cách phát âm đã chính xác. Lập tức Toma sửa lại liền. Sau bữa ăn các bạn Ngài bày tỏ sự ngạc nhiên, nhưng thánh nhân trả lời : - Điều quan trọng không phải là cách phát âm của một từ ngữ, nhưng là biết khiêm tốn vâng phục hay không.
Lúc hai mươi tuổi, Tôma đã được gọi làm giáo sư tại Côlônia, Ngài xuất bản một tác phẩm danh tiếng, rồi đi Paris mở trường dạy triết học ở trường thánh Giacôbê và thụ phong linh mục. Các nhà trí thức tới hỏi ý Ngài. Vua Lu-y IX xin ý kiến Ngài trong những việc hệ trọng và mời Ngài đồng ban dự tiệc.
Nhưng không hoàn cảnh nào đã làm cho Tôma chia trí khỏi những suy tư sâu xa. Chẳng hạn tại bàn ăn của nhà vua, người ta thấy Ngài bất chợt ra khỏi sự yên lặng của mình, đập mạnh lên bàn và kêu lên : - Đây rồi, một luận chứng quyết liệt chống lại những người theo phái Manicheô.
Bối rối vì quên rằng mình đang ở trước mặt vua, Ngài muốn xin lỗi, nhưng vua thánh đã truyền cho Ngài đọc ngay cho thơ ký chép lại những suy tư có giá trị siêu việt đó.
Kinh nguyện, làm việc và ý chí là những yếu tố tạo nên sức mạnh của Tôma, Ngài nói:
- Ai không cầu nguyện thì cũng giống như người lính chiến đấu mà không có khí giới.
- Ngài định nghĩa sự nhàn rỗi như là : - Cái búa mà quân thù bửa xuống.
Ngài trả lời cho bà chị hỏi làm sao để được cứu rỗi : - Phải muốn.
Dầu bận việc rao giảng, dạy học và đi tới những nơi Đức Thánh Cha sai tới Thánh Toma vẫn viết nhiều tác phẩm thành công rực rỡ. Trong một lần hiện ra, Ngài nghe thấy thầy chí thánh nói với mình: - Hỡi con, con đã viết cách xứng đáng về ta, con muốn được thưởng gì ?
Tôma trả lời: - Ôi lạy Chúa, con không muốn gì ngoài Chúa cả.
Người ta quả quyết rằng : Ngài đã nói chuyện với Đức Trinh Nữ, các thiên thần và các thánh. Và khi cầu nguyện tâm hồn Ngài như lìa khỏi xác. Ngài còn được mệnh danh mãi là "Tiến sĩ thiên thần" Ngài có một tâm hồn vui tươi, nhã nhặn với anh em, đến nỗi có người nói : - Mỗi lần thấy và nói chuyện với Ngài, tôi thấy như tràn ngập niềm vui thiêng liêng.
Thánh nhân đã qua mười năm tại Italia. Một phần trong thời gian nầy ở trong giáo triều, Đức Thánh cha Urbanô đã trao phó cho Ngài nhiều trọng trách, rõ ràng nhất là lo cải hóa người Do thái. Đức thánh cha còn muốn gọi Ngài lên chức giám mục nhưng Ngài đã từ chối. Năm 1269 Ngài trở lại Paris để dạy thần học. Năm 1272 Ngài được gọi về Naples để lo việc cho nhà mẹ dòng Daminh. Được năm cuối đời Ngài cống hiến để hoàn tất một tác phẩm vĩ đại, bộ "Tổng luận thần học".
Nhưng cuối năm 1273 đột nhiên Ngài ngừng viết. Khi dâng thánh lễ, Ngài bỗng có linh nghiệm rằng mình không thể viết thêm được nữa. Réginald, thơ ký của Ngài thúc giục viết thêm, thánh nhân đã trả lời rằng: theo điều đã hiển hiện cho Ngài thì tất cả chẳng ra gì: - "Vì mọi điều tôi đã viết đối với tôi chỉ là rơm rác so với điều đã được mạc khải cho tôi thấy".
Đức Grêgôriô cho mời thày dòng danh tiếng đến dự công đồng Lyon. Dầu bệnh hoạn, thánh Toma đã tuân phục và đi bộ với hai anh em để tới dự công đồng. Đi đường lên cơn sốt. Sức khỏe đã chận Người lại tu viện Fossa Nova.
Cảm thấy sắp chết, Ngài tuyên xưng đức tin và khi rước lễ, Ngài nói: - Tôi tin vững rằng: Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật trong bí tích này, con thờ lạy Chúa, ôi Thiên Chúa, đấng cứu chuộc con".
Ngài qua đời đơn sơ và dịu hiền của một trẻ em không ngừng chiêm ngưỡng Thiên Chúa.
Năm 1323 Ngài được phong thánh và được tuyên bố làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1567, Đức Lêo XIII đã đặt Ngài làm Đấng bảo trợ các nhà thần học và các trường công giáo.
    

THÁNH AN-GIÊ-LA MÊ-RI-SI, (St. Angela Merici)


THÁNH AN-GIÊ-LA MÊ-RI-SI, (St. Angela Merici)
ngày 27/01

Mc 3, 22-30

Ngay trong ca nhập lễ, lễ các trinh nữ đã có viết:" Hỡi người bạn trăm năm của Ðức Kitô. Hãy đến lãnh triều thiên Chúa đã thương dành sẵn cho đến mãi muôn đời". Thánh Angela Mêrisi xứng đángđược nhận tước hiệu là bạn trăm năm của Ðức Kitô.

THÁNH ANGELA MÊRISI

Thánh Angela Merisi sinh ngày 21/3/1474 tại nước Ý đại Lợi trong một gia đình đạo đức, vật chất đủ dùng và không bao giờ phải chạy vay mượn, thiếu thốn. Thánh nữ đã có lòng đạo đức ngay từ thời niên thiếu, Ngài có tấm lòng yêu thương người nghèo, con tim nhạy cảm giống chúa Giêsu. Ngài hay động lòng trắc ẩn trước những nỗi sầu khổ, thiếu thốn của anh chị em đồng loại. Giống như Chúa Giêsu khi thấy đoàn lũ dân chúng đông đảo đi theo nghe lời Ngài giảng dậy, Chúa Giêsu đã truyền lệnh cho các môn đệ" hãy cho họ ăn".Thánh nữ Angela Mêrisi luôn lưu tâm tới người nghèo. Ngay vào lúc 9 tuổi, thánh nữ đã làm tuần tĩnh tâm và khấn giữ mình trinh khiết để hiến trọn con người mình cho Thiên Chúa. Thánh nữ luôn khước từ mọi sự giầu sang, xa hoa, phù phiếm, chóng qua để luôn làm việc bác ái, phục vụ cho người nghèo. Vào năm 12 tuổi, thánh nữ mồ côi cha mẹ, nhưng càng sống trong cảnh chật vật Ngài càng kết hiệp mật thiết với Chúa và có lòng yêu mến Ðức Mẹ sâu xa. Vì lòng trung thành và mến mẹ Maria, nên Ðức Mẹ đã cho thánh nữ biết trước ngày về Thiên Ðàng. Càng biết trước ngày về với Chúa, thánh nữ càng cố gắng sống đời tu đức tốt đẹp và làm nhiều việc bác ái, giúp đỡ, an ủi những người nghèo, những người đau khổ, liệt lào. Ðược Chúa yêu thương và soi sáng, Ngài đã thiết lập Hội Phụ Nữ Bác Ái để phục vụ những người nghèo kết quả hơn. Năm 1529, sau khi đi viếng thánh địa, thánh nữ đã được Chúa tỏ cho biết hãy thiết lập tu viện. Thánh nữ đã lập nhiều nhà và chính Ngài đã đào tạo, huấn luyện các tu sĩ.

CHÚA YÊU THƯƠNG CẤT NHẮC NGÀI

Chúa nói:" Người trinh nữ khôn ngoan đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy mất đi"( Lc 110, 42 ). Thánh nữ đã tin tưởng vào Chúa và luôn yêu mến Ðức Mẹ. Chính vì thế, Ngài đã được Chúa gọi về sau một cơn bạo bệnh vào ngày 28/01/1540. Thánh nữ qua đời hưởng thọ 66 tuổi. Thánh nữ được Ðức Thánh Cha Piô VII phong lên bậc hiển thánh vào năm 1807 vì những nhân đức anh hùng của Ngài.
Lạy Thiên Chúa nhân từ, Chúa đã cho thánh An-giê-la trinh nữ nên gương bác ái và khôn ngoan; vì lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con cũng noi theo Người mà trung thành tuân giữ lời Chúa dậy, và tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hằng ngày( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh nữ Angela Mêrisi ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng LợiDCCT

Thánh Timôthê và Thánh Titô, giám mục

Thánh Timôthê và Thánh Titô, giám mục

Lễ ngày 26 tháng 1

Thánh TIMÔTÊÔ và TITÔ, Giám mục

Là con của người cha Hylạp và người mẹ Dothái, Thánh TIMÔTÊÔ đã được theo đạo vào năm 47 khi Thánh Phaolô giảng đạo tại Lystra miền Tiểu Á trong cuộc bách hại dữ dội khiến Thánh Phaolô bị mém đá đến gần chết (x. Cv 14,6-19). Trong cuộc viếng thăm lần thứ hai vào năm 50, Thánh Phaolô đã chọn Ngài như người bạn đồng hành thay thế cho Marcô (x. Cv 13,13.15.38) và cùng với Silas lo việc truyền giáo tại Trung Á (x. Cv 16,1).

Như thế, Timotêô đã chứng kiến việc rao giảng Tin Mừng đầu tiên cho Âu châu. Từ đó, ngài thường được sách Công vụ Tông đồ và các thánh thư nhắc đến như một trong các “tông đồ” hay thừa phái Thánh Phaolô giữ lại hoặc sai đi quan sát các cộng đoàn Kitô hữu đã được thiết lập. Khoảng năm 51, ngài cũng ký tên với Thánh Phaolô trong các thư gửi tín hữu Thessalonica và chính ngài đã từ Côrintô mang thư đến cho cộng đoàn mới trở lại đạo.

Năm 57, ngài trở lại để mang thư thứ hai gửi các tín hữu Côrintô và năm sau, ngài lại cùng với Thánh Phaolô gửi thư chào Giáo hội Rôma. Cuối cùng khi Phaolô bị điệu về Roma, Timoteo vẫn còn ở bên cạnh ngài, ký tên vào các thư gửi đi vào khoảng năm 62 cho dân Philêmon, dân Côlosê và Philippe (x. Plm 2,20).

Năm 65, hình như Phaolô được thả và có dịp thi hành dự định rao giảng Tin Mừng ở thế giới Tây phương. Vắng mặt ở miền Đông. Thánh Phaolô vẫn liên kết với các cộng đoàn Kitô hữu, dầu không lên kết với một cộng đoàn nào với tư cách giám mục cả. Timotêô thì ước hẹn với Á Châu và đặt địa điểm ở Ephesô. Ở đây, ngài nhận được hai lá thư của Phaolô, một lá thư từ Macêdonia khoảng năm 65 và lá thứ khác khoảng 2 năm sau gửi từ Roma, là nơi Phaolô bị giam lần thứ hai.

Chính nhờ những lá thư này mà chúng ta biết được nhiều về Timotêô. Chúng thường đề cập đến nguy hiểm mà các Giáo Hội ở Á châu phải đương đầu, nhưng chúng cũng đưa ra ánh sáng tính khí mà con người Phaolô đã để lại chống đỡ với nguy hiểm. Rõ ràng là có tính nhút nhát, e dè, nhưng ngài cũng đủ nhiệt tâm trong công việc, đến nỗi cần được nhắc nhở phải quan tâm tới sức khoẻ của mình. Ngài cũng biết rõ những đau khổ phải chịu để bảo vệ đức tin (x. 2 Tm 3,12) và những lời khuyên Thánh Phaolô lặp lại không được gợi lên, bởi rằng Timôtêô yếu đuối, nhưng đúng hơn vì biết rằng ngày cùng của mình đã gần, và rồi những người trợ giúp mình sẽ phải kề vai vác lấy gánh nặng một mình. Cuối cùng, Phaolô chỉ còn biết nhắc đến ước nguyện của mình là Timotêô hãy giữ “đạo lý”, đức hạnh, dự định, lòng tin, đại lượng, mến yêu, kiên nhẫn (x. Tm 3,10) như ngài đã học được. Phaolô gọi Timôtêô đến an ủi mình trong những giờ phút cuối cùng, lời gọi chứng tỏ hùng hồn rằng Timôtêô là con rất thân yêu của Thánh Phaolô.

Tân ước còn có một ghi chú nữa về Timôtêô trong thư Philipphê 13,23 trong đó có ghi nhận rằng: Phaolô được thả ra khỏi cảnh tù tội lần 2 khoảng năm 67 và tác giả muốn có Timôtêô tháp tùng về Giêrusalem.

Một truyền thống cho rằng Thánh Timotêô đã ở lại Ephêsô cho tới hết đời. Sách “Công vụ Thánh Timotêô” thế kỷ IV mô tả cái chết của ngài như là bị ném đá và bị đánh đập cho đến chết, nhưng tài liệu quá ít nên không rõ được rằng điều đó có đúng nguồn hay không.

Constantinople cho rằng: mình giữ được các di tích của thánh nhân và lễ kinh nhớ ngài được cử hành này 26-1, tiếp liền ngày kính nhớ thầy mình.

 Thánh TITÔ (thế kỷ I)

Sinh ra là lương dân, Thánh Titô đã được thánh Phaolô cải hoá và được gọi là “người con chân thành của tôi trong sự thông hiệp với đức tin”. Titô nhận được những sứ mệnh khó khăn. Ngài được thánh tông đồ gửi tới dân Côrintô để tổ chức giáo đoàn và thu tiền quyên cúng ủng hộ Giáo hội ở Gierusalem.

Thánh Phaolô trong một bức thư đã bộc lộ lòng yêu quý sâu xa đối với người bạn đời của mình: “Tâm trí tôi không thảnh thơi chút nào vì xa cách bạn Titô đi Côrintô một lần nữa để sửa chữa những bất hoà và Thánh Titô đã mang lại cho ngài những tin tức tốt đẹp hơn”.

Thánh Titô lãnh trách nhiệm tổ chức giáo đoàn ở đảo Crêta. Ở đó ngài nhận thư mang danh mình, Thánh Tông đồ truyền: “Hãy nói với các vị cao niên phải tiết độ đàng hoàng điềm đạm, lành mạnh về đức tin, đức mến và kiên nhẫn... hạng thiếu niên cũng vậy, hãy truyền dạy họ phải biết ở điềm đạm. Trong mọi sự anh em hãy tỏ ra là gương mẫu về đức hạnh, tinh toàn và đoan trang trong giáo huấn” (Tt 2,2-10).

Thánh Titô qua đời khoảng năm 105.

Trích trong Theo Vết Chân Người (Chân dung các thánh nhân)

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Phong tục Tết của người Việt: tục gói bánh chưng ngày tết & tục treo tranh tết và câu đối tết

Phong tục Tết của người Việt: tục gói bánh chưng ngày tết & tục treo tranh tết và câu đối tết

Kính thưa quý độc giả, nhân dịp Xuân về, chúng tôi xin giới thiệu đến quý vị một bài nghiên cứu chuyên sâu về phong tục ngày Tết cổ truyền Việt Nam của tác giả Michael Nguyễn Hạnh. Thầy Michael Nguyễn Hạnh là một nhà nghiên cứu về văn hóa, Hán – Nôm và là thành viên Ban Từ Vựng Công Giáo thuộc Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Từ hôm nay cho đến Tết, chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu đến quý vị từng phần của bài viết này. Hy vọng qua bài viết của thầy, chúng ta sẽ có dịp được tìm hiểu sâu xa hơn về nguồn gốc, ý nghĩa… của phong tục ngày Tết.
——————
PHONG TỤC TẾT CỦA NGƯỜI VIỆT
Michel Nguyễn Hạnh, Nhóm Lasan 100
Tục gói bánh chưng ngày tết
Qua Truyện bánh chưng, Lĩnh Nam Chích Quái, ai cũng biết tục gói bánh chưng tương truyền có từ đời vua Hùng và tác giả là Lang Liêu.
雄王既破殷军之后,国家无事,欲傳于子,乃会官郎,公子二十二人,谓曰:“我欲傳位,有能如我愿,欲珍甘美味,岁终荐于先王,以尽孝道,方可传位。”
于是诸子各求水陆奇珍之物,不可胜数。惟十八子郎僚母氏单寒微,先已病故,左右寡少, 难以应办。昼夜思想,梦寐不安。夜梦神人告曰:“天地之物所贵于人,无过米。所以养人,人能壮也。食不能厌,他物莫能先。当以糯米作饼,或方或圆,以象天 地之形,叶包其外,中藏美味,以寓父母生育之重。”郎僚惊觉,喜曰:“神人助我也。”遵而行之。乃以糯米择其精白,选用圆完无缺折者,淅之洁静,以青色叶 包裹为方形,置珍甘美味在其中,以象天地包藏万物焉。煮而熟之,故曰蒸饼。又以糯米炊熟,捣而烂之,捏作圆形以象天,故曰薄持饼。
初,王传位于郎僚,兄弟二十一人,分守藩篱,立为部党,以为藩国。迨后众将争长,各立木栅以遮护之,故曰栅、曰村、曰庄、曰坊,自此始。
images2765172_1326859887Phiên âm: hùng vương ký phá ân quân chi hậu, quốc gia vô sự, dục truyền vu tử, nãi hội quan lang, công tử nhị thập nhị nhân, vị viết: “ngã dục truyền vị, hữu năng như ngã nguyện, dục trân cam mĩ vị, tuế chung tiến vu tiên vương, dĩ tẫn hiếu đạo, phương khả truyền vị。”
vu thị chư tử các cầu thủy lục kỳ trân chi vật, bất khả thắng sổ。duy thập bát tử lang liêu mẫu thị đan hàn vi, tiên dĩ bệnh cố, tả hữu quả thiểu, nan dĩ ứng bạn。 trú dạ tư tưởng, mộng mị bất an。
dạ mộng thần nhân cáo viết: “thiên địa chi vật sở quý vu nhân, vô quá mễ。 sở dĩ dưỡng nhân, nhân năng tráng dã。 thực bất năng yếm, tha vật mạc năng tiên。 Đương dĩ nhu mễ tác bính, hoặc phương hoặc viên, dĩ tượng thiên địa chi hình, hiệp bao kỳ ngoại, trung tàng mỹ vị, dĩ ngụ phụ mẫu sanh dục chi trọng。”lang liêu kinh giác, hỉ viết: “thần nhân trợ ngã dã。” tuân nhi hành chi。nãi dĩ nhu mễ trạch kỳ tinh bạch, tuyển dụng viên hoàn vô khuyết chiết giả, tích chi khiết tĩnh, dĩ thanh sắc hiệp bao khỏa vi phương hình, trí trân cam mỹ vị tại kỳ trung, dĩ tượng thiên địa bao tàng vạn vật yên。 chử nhi thục chi, cố viết chưng bính。 hựu dĩ nhu mễ xuy thục, đảo nhi lạn chi, niết tác viên hình dĩ tượng thiên, cố viết bạc trì bính。。。
(đoạn nối tiếp đã trình bày ở đầu bài viết)
sơ, vương truyền vị vu lang liêu, huynh đệ nhị thập nhất nhân, phân thủ phiên ly, lập vi bộ đảng, dĩ vi phiên quốc。 đãi hậu chúng tương tranh trường, các lập mộc sách dĩ già hộ chi, cố viết sách, viết thôn, viết trang, viết phường, tự thử thủy。
Dịch nghĩa: Sau khi vua Hùng đã phá xong giặc Ân, đất nước thái bình, nên muốn lo việc truyền ngôi cho con, hội hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo: – Ta muốn truyền ngôi cho người có thể làm vừa lòng ta, biết đem trân cam mỹ vị đến dân cúng Tiên vương vào cuối năm để tròn đạo hiếu thì sẽ được truyền ngôi cho.
Các công tử lo đi tìm các vị trân kỳ, hoặc săn bắn, chài lưới, hoặc mua ở chợ, vụ được nhiều của ngon vật lạ không biết bao nhiều mà kể. Duy có công tử thứ mười tám là chàng Liêu, bà mẹ hàn vi đã lâm bệnh mà quá cố rồi, tả hữu lại ít người nên khó bề toan tính, ngày đêm thao thức ăn ngủ không yên.
Đêm nằm mộng thấy thần nhân bảo rằng: – Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là của để nuôi dân, người ta ăn mãi không chán, không có vật gì đứng trước được; nếu lấy gạo nếp hoặc gói làm hình tròn để tượng trời, hoặc gói làm hình vuông để tượng đất, ở trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý cái ơn trời đất phát dục vạn vật, như thế thì lòng cha sẽ vui, tôn vị chắc được. Chàng Liêu kinh sợ tỉnh dậy, mừng rằng “Thần minh giúp ta, ta nên bắt chước theo mà làm”. Chàng Liêu lựa hột nếp nào trắng tinh, hoàn toàn không sứt mẻ đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu cho chín, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho thực nhuyễn, nặn làm hình tròn để tượng trưng hình trời, gọi là bánh dầy…
(đoạn nối tiếp đã trình bày ở đầu bài viết)
Rồi, vua Hùng truyền ngôi cho chàng Liêu; hai mươi mốt anh em đều giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, bảo vệ non sông. Về sau, họ hàng tranh nhau làm trưởng, mỗi người dựng rào gỗ để che kín bởi vậy từ gọi là sách, là trại, là trang, là phường bắt nguồn từ đấy.
Bánh chưng hình vuông có phải là truyền thống của người Việt hay không?
 banh-chung-13Trong đoạn trích sau cho thấy bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất: Đương dĩ nhu mễ tác bính, hoặc phương hoặc viên, dĩ tượng thiên địa chi hình, hiệp bao kỳ ngoại, trung tàng mỹ vị, dĩ ngụ phụ mẫu sanh dục chi trọng。”lang liêu kinh giác, hỉ viết: “thần nhân trợ ngã dã。Dịch nghĩa: Nếu lấy gạo nếp hoặc gói làm hình tròn để tượng trời, hoặc gói làm hình vuông để tượng đất, ở trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý cái ơn trời đất phát dục vạn vật, như thế thì lòng cha sẽ vui, tôn vị chắc được.
Đây chính là văn hóa Trung Hoa, phát xuất từ Đạo giáo. Trong sách Văn tâm điêu long文心雕龍có đoạn viết: 夫,玄黃色雜,方圓体分。日月疊璧,以垂麗:天之象;山川煥綺,以鋪理地之形。此蓋道之文也。Phiên âm:Phù! Huyền hoàng sắc tạp, phương viên thể phân. Nhật nguyệt điệp bích dĩ thùy lệ: thiên chi tượng. Sơn xuyên hoán ỷ, dĩ phô lý: địa chi hình. Thử cái đạo chi văn dã. Dịch nghĩa: Ôi! Từ lúc trời đất còn tạp với nhau, đến lúc trời đất được phân ra thì: Mặt Trời và Mặt Trăng nối tiếp nhau như xâu chuỗi ngọc, nhằm buông cái 麗Lệ (đẹp) xuống: đó là 象Tượng của Trời. Núi sông lộ ra như những mảnh lụa chằng chịt rực rỡ, nhằm phô cái 理Lý (trật tự): đó là 形Hình của Đất. Tất cả (cái Lệ, cái Lý đó) gọi là Văn của Đạo.
Điều này cho thấy phương viên (tròn vuông), nhật nguyệt phiếm chỉ trời đất. Câu “dĩ tượng thiên địa chi hình” trong Lĩnh Nam Chích Quái mượn ý từ “thiên chi tượng” và “địa chi hình” của Đạo giáo. Như thế đã rõ, khái niệm vuông tròn cho bánh chưng, bánh dầy để biểu trưng cho trời đất là văn hóa Trung Hoa.
t423213Vậy, bánh chưng ngày xưa của người Việt có hình gì?
Ngày nay, ở Phú Thọ – nơi đất Tổ – có bánh chưng hình trụ, giống như bánh tét; còn gọi là bánh chưng tày hay bánh tày. Theo giáo sư Lê Văn Lan, bánh hình trụ là hình thức nguyên thủy của bánh chưng. Bởi vì người Việt xưa theo tín ngưỡng phồn thực. Bánh chưng tày có hình giống như sinh thực khí của người nam. Tại làng Thanh Đình (sát Đền Hùng, Phú Thọ), vào ngày lễ hội, còn giữ phong tục từ thời Hùng Vương, đó là “đâm chày vào oa[1]” để cầu sự thịnh vượng, sự sinh sôi nảy nở. Chữ tày có gốc từ chữ chày. Bánh tày có nguồn gốc từ đó. Còn sự tích bánh dầy bánh chưng mới có từ đời nhà Trần nên bị ảnh hưởng văn hóa của Trung Hoa. Chuyện đời gẫm đến chuyện đạo, có nhà thờ xây bàn thờ hình tròn và cấu trúc cung thánh theo kiểu “trời tròn đất vuông” và cho đó là bản sắc Việt thì thật là không ổn.
Tục treo tranh tết và câu đối tết
ongdoCâu đối là một trong những tinh hoa của văn hóa Việt, thâm thúy về ý, trau chuốt về lời, đẹp vì sự đối điệp. Từ lâu, cách thức chơi câu đối được phổ biến trong dân gian và trở thành một phong tục đẹp của dân tộc. Câu đối phát xuất ở Trung Hoa nhưng không rõ bắt đầu từ bao giờ. Xa xưa, khi đón tết, người Trung Hoa thường tạc những cái bùa treo nơi cửa với ý nghĩa là ngăn chặn tà ma. Dần dà, những cái bùa kia được chuyển thành chữ viết và hình vẽ để tiện cho việc trang hoàng. Bùa bằng chữ viết lâu dần phát triển thành hoành phi, câu đối. Bùa bằng hình vẽ dần dần biến thành tranh treo ngày tết, tựa như tranh làng Hồ hay tranh hàng Trống ở nước ta. Trong tranh vẽ ấy vẫn có một hai câu để nói lên ý của tác giả muốn gửi gắm. Vd. Tranh Tứ Quý:
Bộ tranh Tứ Quý, Đông Hồ, có 4 bức tranh với chữ Hán tương ứng: tranh Nhân Nghĩa 仁義 vẽ hình đứa bé ôm con cóc, phía sau có mấy trái đào; tranh Lễ Trí 礼智 vẽ hình đứa bé ôm con rùa, phía sau có đóa hoa sen; tranh Vinh Hoa 榮花 vẽ hình đứa bé ôm con gà, phía sau có đóa hoa súng; tranh Phú Quý 富貴 vẽ hình đứa bé ôm con vịt, phía sau có mấy trái đào.
Câu đối du nhập vào nước ta trong thời bị Bắc thuộc, ít nhất từ đời nhà Đường, vì lúc ấy người Việt bị ép học chữ Hán. Qua nghiên cứu, người ta nhận thấy dáng dấp câu đối xuất hiện trong bài phú cổ Bạch vân chiếu xuân hải 雲照春海 của Khương Công Phụ 姜公輔, tự Khâm Vân. Ông là người xã Định Công, huyện An Định, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Khương Công Phụ du học ở Trung Hoa, thi đỗ Tiến sĩ (thời ấy người Việt phải sang Trung Hoa để tham dự khoa cử), làm quan đến chức Gián nghị Đại phu Đồng trung thư Môn hạ Bình chương sự, dưới đời vua Đường Đức Tôn (780-804). Đến đời vua Đường Thuận Tôn (805-806), ông lĩnh chức Tuyền châu Thứ sử được ít lâu thì mất. Vua Lê Cảnh Hưng phong cho Khương Công Phụ làm Thượng đẳng phúc thần. Sở trường của ông là những bài phú. Chẳng hạn bài phú Bạch vân chiếu xuân hải (Mây trắng rọi biển xuân) không chỉ để tả cảnh trời, biển, gió, mây mà trình bày quan niệm của đạo Lão về vũ trụ, với lời văn nhẹ nhàng thanh thoát, với hình thức mang dáng dấp đối điệp:
Bạch vân dong dong, diêu duệ hồ xuân hải chi trung;
Phân vân tằng Hán, kiểu khiết trường không.
Tế ảnh sâm si, tạp vi minh ư nhật vực;
Khinh văn lân loạn, phân quýnh hoảng ư tiên cung.
Dịch nghĩa:
Mây trắng mênh mông, lay động hòa giữa biển xuân;
Cảnh từng lớp nước chảy trên sông Hán, sáng một khoảng dài.
Bóng ảnh so le, thành vầng sáng quanh mặt trời;
Vẻ đẹp nhẹ nhàng biến động, chia đều rực rỡ cõi tiên.
thuchoichuTrong khoa cử xưa, có phần thi văn biền ngẫu騈耦, do đó sĩ tử phải học làm câu đối. Ở Việt Nam, lâu dần, cách làm câu đối lan rộng ra từ tầng lớp trên xuống tầng lớp dưới, được dân gian hóa thành một thú chơi tao nhã, thành một nét đẹp văn hóa của dân tộc. Không phải nước nào chịu ảnh hưởng chữ Hán cũng có sự phát triển tốt về câu đối. Những nước như Hàn quốc, Nhật Bản có cấu tạo ngữ âm dạng đa âm tiết và không có thanh điệu nên câu đối không phát triển mạnh. Ngược lại, việc câu đối được phổ biến ở nước ta còn liên quan đến cấu tạo ngữ âm dạng đơn âm tiết và có thanh điệu, tương tự như tiếng Hán. Tuy nhiên, tiếng Hán phổ thông có 4 thanh điệu (dương bình, âm bình, thượng thanh, khứ thanh), trong khi ấy tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng), sắc âm của tiếng Việt phong phú hơn tiếng Hán.
Một số câu đối Tết:
Thiên tăng tuế nguyệt, niên tăng thọ / Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường. ‖ Dịch nghĩa: Trời thêm năm tháng, tuổi thêm thọ / Xuân đầy trời đất, phúc đầy nhà.
Tân niên, hạnh phúc bình an tiến / Xuân nhật, vinh hoa phú quý lai. ‖ Dịch nghĩa: Tết mới, hạnh phúc bình an đến / Ngày Xuân, vinh hoa phú quý về.
Giáp tý trùng tân tân giáp tý. / Xuân thu kỷ độ độ xuân thu.‖ Dịch nghĩa: Giáp tý vừa qua, qua giáp tý. / Xuân thu mấy độ, độ xuân thu.
Xuân đáo chu thiên trào thực khí / Thời lai quán địa mộc vân ba. ‖ Dịch nghĩa: Chào xuân mới, nơi nơi tràn khí ấm / Gặp thời hay, chốn chốn rộ hoa xuân.
Môn đa khách đáo thiên tài đáo / Gia hữu nhân lai vạn vật lai. ‖ Dịch nghĩa: Cửa nhiều khách đến nhiều tiền đến. / Nhà có người vào lắm vật vào.
Sơn thủy thanh cao xuân bất tận / Thần tiên lạc thú cảnh trường sinh. ‖ Dịch nghĩa: Phong cảnh thanh cao xuân mãi mãi. / Thần tiên vui thú cảnh đời đời.
Tổ tôn công đức thiên niên thịnh / Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương. ‖ Dịch nghĩa: Công đức tổ tông nghìn năm thịnh. / Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay.
Xuân như cẩm tú, nhân như ngọc. / Khách mãn gia đình, tửu mãn tôn. ‖ Dịch nghĩa: Xuân như cẩm tú, người như ngọc. / Khách chật trong nhà, rượu hết chung.
Phúc sinh lễ nghĩa gia đường thịnh. / Lộc tiến vinh hoa phú quý xuân. ‖ Dịch nghĩa: Phúc đem lễ nghĩa trong nhà thịnh. / Lộc nảy vinh hoa phú quý xuân.
DSC_3799-Cau doi ngay XuanNiên niên như ý xuân / Tuế tuế bình an nhật. ‖ Dịch nghĩa: Năm năm xuân như ý / Tuổi tuổi ngày bình an.
Nhập môn tân thị kinh luân khách / Mãn tọa dai đồng cẩm tú nhân. ‖ Dịch nghĩa: Vào cửa toàn khách kinh luân / Ngồi chơi toàn người cẩm tú.
Niệm tiên tổ, duật tu quyết đức / Khải hậu nhân, trường phát kỳ tường. ‖ Dịch nghĩa: Nhớ tổ tiên, đẹp điều nhân đức / Tin cháu con bền sự lạ hay.
Thảo ốc an cư, tích kim quang đắc đức / Bố y tùy phận, cầu phúc đức lai tài. ‖ Dịch nghĩa: Nhà cỏ ở yên, tích kim quang được đức / Áo vải an thân, cầu phúc đức đến tài.
Thiên địa vô tư, tích thiện tự nhiên thiện / Thánh hiền hữu giáo, tu thân khả dĩ vinh. ‖ Dịch nghĩa:  Trời đất vô tư, làm điều thiện tự nhiên được thiện / Thánh hiền có dạy, lo tu thân có thể được vinh.
Ðịa sinh tài, thế nghiệp quang huy / Thiên tứ phúc, gia thanh hiện thái. ‖ Dịch nghĩa: Ðất sinh tài nghiệp đời sáng láng / Trời ban phúc, nhà tiếng tốt tươi.
Phúc mãn đường, niên tăng phú quý / Ðức lưu quang, nhật tiến vinh hoa. ‖ Dịch nghĩa: Phúc đầy nhà, năm thêm giàu có. / Ðức ngập tràn, ngày một vinh hoa.
Trúc bảo bình an, tài lợi tiến / Mai khai phú quý, lộc quyền lai. ‖ Dịch nghĩa: Trúc giữ bình yên, thêm tài lợi. / Mai khai phú quý, lại lộc quyền.
Tiên tổ phương danh lưu quốc sử / Tử tôn tích học hiển gia phong. ‖ Dịch nghĩa: Tiên tổ danh thơm ghi quốc sử / Cháu con tích học rạng gia phong.
Đa lộc, đa tài, đa phú quý / Đắc thời, đắc lợi, đắc nhân tâm. ‖ Dịch nghĩa: Nhiều lộc, nhiều tài, nhiều của cải / Gặp thời, được lợi, được nhân tâm.
Ngoài cửa mừng Xuân nghênh Ngũ Phúc / Trong nhà chúc Tết hưởng Tam Ða.
Tối ba mươi, khép cánh càn khôn ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới / Sáng mùng một, lỏng theo tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân về.
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa./ Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà. (cụ Nguyễn Công Trứ)
Ngày Tết còn nhiều phong tục nữa, như: trưng mâm ngũ quả, xin chữ, xuất hành, hái lộc, xông nhà, khai bút đầu xuân, mừng tuổi… Những phong tục ấy đa số bị ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa. Song song đó có những trò chơi trong hội hè như: hát Quan họ, đánh đu, múa lân, thi đánh vật, thi chèo thuyền…
Hiện nay có một số ý kiến muốn rút ngày nghỉ tết âm lịch còn lại hai ngày, tăng ngày nghỉ tết Tây lên đặng dễ “hội nhập văn hóa”. Đó quả là “tối kiến”, vì mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng. Nếu tất cả đều “Tây hóa” thì nhà thơ Vũ Đình Liên (1919-1996), tác giả bài thơ Ông Đồ, chắc phải gửi “tin nhắn” cho hạ giới rằng: NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ, HỒN Ở ĐÂU BÂY GIỜ!
Sài Gòn, ngày 26 tháng 1 năm 2013
HẾT

[1] Oa nghĩa là lỗ.
 
Thuộc về mục: Bản Tin, Giáo Hội Việt Nam, Nét Đẹp, Nhân Bản

Nhìn Lại Một Năm Qua

Trong những giây phút cuối cùng của năm cũ này, chắc có lẽ mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy có chút bâng khuân là lạ. Có một cái gì đó sắp qua đi. Một chặng đường của cuộc sống đã trôi về quá khứ. Một năm trước, khoảng thời gian vừa rồi vẫn còn nằm trong dự tính và chờ đợi của ta. Giờ đây, nó đã đi qua lúc nào không biết, hệt như một thoáng giây, như thước phim ghi lại bao kỷ niệm ngọt ngào và êm ái. Cứ mỗi độ cuối năm là ta cảm thấy bồi hồi, một cảm xúc thật khó tả. Ngọn gió quen thuộc như ngày nào, cành mai, cành đào đang hé nở, bánh mứt, hạt dưa đã chuẩn bị sẵn sàng, bầu không khí vừa hạnh phúc, vừa lâng lâng như bao trùm cả đất trời, hòa quyện vào tim ta, làm nên một phần của con người ta. Lại một đoạn đường nữa đã qua đi, trẻ thơ thì vui mừng vì mình được thêm một tuổi mới, người già thì có chút lắng lo vì mình đang tiến gần hơn đến khoảnh khắc phải ra đi. Tóc bạc thêm vài sợi, da chùn đi một tí… Cái kết thúc luôn làm ta chạnh lòng với những cảm xúc vui buồn trộn lẫn. Thế nên, nó mới làm ta thấy nao nao.
Một năm qua đi, biết bao ơn lành Chúa ban xuống trên ta. Dẫu cũng có không ít những thăng trầm trong cuộc sống, nhưng dường như mọi chuyện vẫn đâu vào đấy, cũng qua đi cách nhẹ nhàng. Ít ra, cho đến giây phút này, ta và gia đình vẫn còn được sống, được bình an, được vui hưởng thêm một khoảng thời gian nữa trên cõi đời. Công ăn việc làm có thể không như ta mong đợi, nhưng ngày ba bữa cơm, Chúa vẫn ban cho đủ. Đông sang trở trời, ta vẫn có cái để mặc cho ấm thân. Một năm qua, ta gặp gỡ thêm biết bao nhiêu con người mới, thiết lập thêm bao mối tương quan. Cuộc sống của ta như được mở ra hơn với những tương quan ấy. Họ đến trong đời mình, chia sẻ với mình những nỗi buồn vui. Hành trình tại thế của ta nhờ vậy là bớt đi phần đơn côi, trống vắng. Suốt một năm qua, có biết bao lần Chúa che chở cho ta cách âm thầm mà ta không hề biết. Biết đâu có lần nào đấy, mình suýt bị tai nạn giao thông, nhưng may mà không sao cả. Có lần mình mắc một căn bệnh thập tử nhất sinh, nhưng Chúa đã cho tai qua nạn khỏi. Có lần gia đình lục đục, cãi vã tưởng sẽ dẫn đến những rạn nứt hay chia lìa, nhưng cuối cùng mọi chuyện của qua đi… Bàn tay của Chúa vẫn bao bọc lấy ta. Ta hãy dâng lời tạ ơn Chúa!
Nhưng một năm qua, cũng có biết bao điều ta làm gây tổn thương cho người khác, lỗi nghĩa cùng Chúa, khiến cho cuộc sống ta chẳng mấy khi bình an. Dường như ta không hăm hở mấy chuyện thiêng liêng đạo nghĩa. Dường như ta có phần chểnh mảng chăm lo chuyện đi lễ đọc kinh. Dường như có lúc ta còn lo cho mình hơn là hy sinh cho gia đình, cho người bạn đời và cho những đứa con yêu dấu. Biết đâu cũng có vài lần ta vô tình nói những điều khiến bố mẹ phải buồn sầu mấy hôm. Rồi lắm khi ta ham chơi, không chịu nghĩ đến những hy sinh gia đình dành cho mà học tập cho nghiêm túc. Ta còn sa đà vào những đam mê xấu, những trò trụy lạc mà đám bạn rủ rê. Có lúc ta còn không kiềm chế cảm xúc nóng giận của mình mà gây gỗ với người hàng xóm, làm tương quan giữa hai nhà bỗng trở nên căng thẳng, nặng nề. Ta cũng đã đánh mất đi cơ hội làm một điều tốt giúp tha nhân. Ta đã không dám đưa tay ra nâng đỡ một người anh chị em đang gặp túng thiếu. Ta vẫn còn co cụm trong thế giới riêng của mình, không dám bung mình ra để nói một lời an ủi, một lời yêu thương. Biết đâu, một năm qua, có người thân nào đó của ta về với Chúa mà ta không kịp tiễn đưa, và giờ đây, ta thấy trong lòng nuối tiếc. Nếu có làm điều gì đó không được đẹp ý Chúa, các bạn hãy xin lỗi Chúa.
Nhìn lại một năm, đó không phải là khoảnh khắc ta lôi ra những gì để xảy đến trong quá khứ để dày vò bản thân. Nhưng đó là cơ hội để ta thêm một lần nữa nhận ra hình bóng của Chúa vẫn song hành bên ta trong từng bước đi của cuộc sống, để tạ ơn Người, để xin lỗi Người, để tâm sự với Người, để kể cho Người những nỗi niềm của ta. Tết năm nay chắc là cũng có điều gì đó khác năm trước: số lượng thành viên không còn đủ, hay có thêm những thiên thần nhỏ bé khác vừa mới chào đời. Tất cả đều là ân sủng của Chúa.
Một năm qua, cuộc sống của các bạn có vui không? Đâu là niềm vui lớn nhất của các bạn? Có điều gì xảy đến trong năm qua mà đến bây giờ, các bạn vẫn còn thấy áy náy trong lòng? Có tương quan nào đang rạn nứt mà đến bây giờ bạn vẫn chưa để gàn gắn lại không? Có dự phóng nào mà bạn đã vạch ra hồi năm trước vậy mà đến bây giờ bạn vẫn chưa thể làm được không? Ngẫm nghĩ lại tất cả những gì đã xảy đến, bạn thấy vui hay buồn?
Chúng tôi xin mời các bạn hãy tự mình thưa lên cùng Chúa một lời nguyện ngắn nào đó, đúc kết trọn vẹn tâm tình mà bạn đang có lúc này đây, một lời nguyện chân thành và tha thiết nhất.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Người Công Giáo Việt Nam và vấn đề Tôn Kính Tổ Tiên


Người Công Giáo Việt Nam và vấn đề Tôn Kính Tổ Tiên

1/19/2014 10:44:38 AM
Ngay từ thời các nền văn hóa còn hoang sơ, dân Ixraen đã ý thức được lệnh Thiên Chúa truyền cho họ phải tôn kính tổ tiên. Đây không phải là một lời khuyên, nhưng là một điều luật của Thiên Chúa cho dân của Ngài: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12)
Image
Cúng giỗ ông bà, cha mẹ
 Để làm sáng tỏ những điều đó, xin được trình bày qua ba ý tưởng:
- Tôn Kính Tổ Tiên là một giới răn và có nền tảng trong Kinh Thánh;
- truyền thống Tôn Kính Tổ Tiên phù hợp với chữ Hiếu trong Đạo CôngGiáo;
- hình thức Tôn Kính Tổ Tiên theo Đạo Công giáo.
1. Tôn kính tổ tiên là một giới răn và có nền tảng từ Thánh kinh
 Ngay từ thời các nền văn hóa còn hoang sơ, dân Ixraen đã ý thức được lệnh Thiên Chúa truyền cho họ phải tôn kính Tổ Tiên. Đây không phải là một lời khuyên, nhưng là một điều luật của Thiên Chúa cho dân của Ngài: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12). Giới răn này được đặt ở vị trí thứ tư trong 10 giới răn, chỉ sau ba giới răn con người với Thiên Chúa; nghĩa là việc kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên đứng ở vị trí đầu tiên trong bảy giới răn còn lại con người sống với nhau. Điều đó thể hiện tầm quan trọng của việc tôn kính Tổ Tiên của người Công Giáo. Tôn kính Tổ Tiên là điều quan trọng nhất trong các giới răn liên quan đến tha nhân.
Trong sách Tôbia, trước khi chết, người cha đã gọi con trai là Tôbia đến và khuyên rằng: “Con hãy chôn cất cha cho tử tế. Hãy thảo kính mẹ con và đừng bỏ rơi người bao lâu người còn sống. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng người cả. Này con, con phải nhớ rằng mẹ con đã trải qua bao nỗi ngặt nghèo vì con, khi con còn trong dạ mẹ. Khi người mất, con hãy chôn cất người ngay bên cạnh cha, trong cùng một phần mộ” (Tb 4,3-4).
Tác giả sách Huấn ca, khi đưa ra những lời giáo huấn về đời sống luân lý, cũng đã không quên nói đến nghĩa vụ của con cái:“Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, để nhờ người mà con được chúc phúc. Vì phúc lành của người cha làm cho cửa nhà con cái bền vững, lời nguyền rủa của người mẹ làm cho trốc rễ bật nền. Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3, 8-9.12-14.16).
Đức Giêsu đến trần gian cũng đã sống cuộc đời hiếu thảo với cha mẹ: “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2, 51a). Trong sứ vụ công khai, Ngài đã khiển trách các kinh sư và Pha-ri-sêu về lối tôn kính cha mẹ kiểu vụ hình thức (Mt 15,1-9). Ngài đã sống trọn vẹn chữ hiếu với Thiên Chúa Cha qua việc vâng lời cho đến bằng lòng chịu chết để cứu độ con người. Đỉnh điểm khi bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao phó mẹ Ngài cho môn đệ Gioan (Ga 19, 25-27). Xét về phương diện chữ hiếu, lúc mà sự cứu rỗi thế gian sắp hoàn tất, Đức Giêsu vẫn không quên bổn phận hiếu thảo của mình, Ngài đã tìm cho mẹ một chỗ nương tựa lúc tuổi già.
Thánh Phaolô cho chúng ta thấy việc hiếu thảo với cha mẹ là điều đẹp lòng Thiên Chúa “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20). Và đó là điều phải đạo: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo” (Ep 6,1).
Như vậy, việc tôn kính Ông Bà Cha Mẹ đối với người Công Giáo không chỉ dừng lại ở bình diện bổn phận, nhưng đó còn là giới răn của Thiên Chúa bó buộc mọi người phải thi hành. Chính vì vạy, chúng ta thấy được thái độ tôn kính phải có của người Công Giáo với Ông Bà Tổ Tiên, chứ không phải là theo Chúa thì bỏ Ông Bà Tổ Tiên.
2. Truyền thống Tôn Kính Tổ Tiên hợp với chữ Hiếu trong Đạo Công Giáo
Ca dao Việt Nam chúng ta có câu:
“Con người có tổ, có tông,
như cây có cội, như sông có nguồn”.
 Đó là lời răn dạy của cha ông đối với mỗi chúng ta. Dù ở địa vị nào, ở bất kỳ nơi đâu, sống trong hoàn cảnh nào, cũng đừng quên cội nguồn của mình, phải nhớ đến tình cha, nghĩa mẹ, công đức ông bà, tổ tiên. Từ đó, chúng ta có thể rút ra những lý do người Việt Nam tôn kính Ông Bà Tổ Tiên và những lý do này phù hợp với niềm tin Công Giáo.
Lý do thứ nhất là phải đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Thực ra, nào có cần phải nêu ra lý do này lý do kia để chúng ta hiểu tại sao mình cần phải hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Tận trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người, ai sống trên đời mà chẳng có người sinh ra, chân lý này chỉ mới dừng lại ở công ơn sinh thành. Quả thực, con người sống với nhau, luôn có mối dây thiêng liêng liên kết ràng buộc, ta gọi đó là tình nghĩa gia đình và đạo hiếu, cách riêng đối với người Việt Nam, đạo hiếu đã trở thành nghĩa cử thiêng liêng ăn sâu trong tâm trí họ, thay vì hiểu nó là trách nhiệm, bổn phận. Ca dao ví von:

“Công cha như núi thái sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Người xưa đã mượn câu ca dao đó để ca ngợi công lao trời biển của cha mẹ. Công đức sinh thành của cha mẹ thật không có gì sánh được, biết ơn cha mẹ trước tiên và sâu xa nhất, là biết đến công ơn sinh thành, nuôi dưỡng ta bao năm tháng. Trong Đạo Công giáo, đền đáp công ơn của các bậc sinh thành được tác giả sách Huấn ca nhấn mạnh: “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7, 27-28).
Thứ đến là lòng bác ái. Là người Việt Nam, chắc hẳn ai cũng biết mình mang dòng máu rồng tiên. Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ cho thấy mọi người đều sinh ra từ cái bọc trăm trứng. Mọi người là anh em của nhau, nên phải thể hiện tình thương yêu đối với nhau. Đạo Công Giáo luôn cổ vũ lòng bác ái. Bác ái là trung tâm điểm của việc thực thi Giáo lý, người Công Giáo phải “mến Chúa” và “yêu người thân cận như chính mình”. Bác ái trước hết, phải thể hiện từ những mối tương quan gần gũi, ông bà cha mẹ.
Cuối cùng, việc tôn kính Ông Bà Tổ Tiên thể hiện lòng hiếu kính. Bổn phận làm con phải biết thờ mẹ kính cha, phải làm tròn chữ hiếu. Quy luật của cuộc sống là không có cây thì không có quả, không có người sinh thành thì không thể có chúng ta. Người biết ơn là người thể hiện rõ đức tính nhân bản. Đạo Công Giáo cũng có thể được gọi là Đạo Hiếu, bởi người Công Giáo tin Thiên Chúa là Cha, là Đấng sáng tạo con người và muôn vật. Vì thế, con người cũng phải thể hiện chữ hiếu với Thiên Chúa bằng cách thờ phượng và tôn vinh. Bên cạnh đó, việc thảo hiếu với cha mẹ là điều giúp con cái được hưởng thọ và hạnh phúc, như thánh Phaolô khẳng định: “Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,2).

3. Tôn kính như thế nào?

Việt Nam là một nước mang đậm truyền thống văn hóa Á Đông, hơn nữa lại ảnh hưởng bởi Nho Giáo và Đạo Giáo, nên vấn đề tôn kính ông bà cha mẹ rất được coi trọng. Đức tin Công Giáo được gieo vào lòng đất Việt vào khoảng thế kỷ XVI – XVII (1533 – 1659), thời các cha dòng Tên chính thức việc rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam. Tuy nhiên, những bước đầu tiếp cận con người và vấn đề hội nhập văn hóa rất khó khăn. Bởi các vị thừa sai chưa hiểu một cách thấu đáo về truyền thống văn hóa tôn kính Ông Bà Tổ Tiên của người dân trong khu vực này và có nhiều điểm dị biệt trong quan điểm hội nhập. Thực tế, lịch sử cũng có những câu chuyện đáng tiếc xảy ra, và quan niệm sai lầm về Đạo Công Giáo không được tôn kính Ông Bà Tổ Tiên vẫn còn dư âm đến ngày hôm nay, nhất là ở những nơi mà ánh sáng Tin Mừng chưa được lan tỏa. Nhưng thiết nghĩ rằng, đó là lối suy nghĩ đã cũ, và chưa hiểu về Đạo Công Giáo.
Thực tế, “Tin Mừng không chọn lựa đất sống. Tình yêu chẳng chối từ gian nan”[4], Tin Mừng chấp nhận hội nhập với mọi nền văn hóa. Giáo Hội đã tìm cách tháo gỡ những bế tắc, đã đưa ra phương hướng cho việc hội nhập đức tin Công Giáo vào truyền thống tôn kính Ông Bà Tổ Tiên trên dân tộc Việt Nam nói riêng và vùng Á châu nói chung. Ngày 08 tháng 12 năm 1939, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin đã cho công bố “Huấn thị Plane compertum est” nhằm tháo gỡ việc cấm tôn kính Ông Bà Tổ Tiên tại Trung Quốc, Nhật Bản và những nước có nền văn hóa tương tự.
Tại Việt Nam, các giám mục cũng xin áp dụng huấn thị vào tình hình lịch sử văn hóa của đất nước và được Tòa thánh, qua Bộ Truyền Giáo, chấấp nhận vào ngày 02 tháng 10 năm 1964. Trong hội nghị giám mục tại Đà Lạt vào ngày 13-14 tháng 6 năm 1965, các ngài đã công bố thông cáo về việệc tôn kính tổ tiên và các anh hùng liệt sỹ. Thông cáo lấy lại Thông điệp “Evangelii praecones” của Đức Piô XII để nói lên quan điểm của Giáo Hội: “Giáo Hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo”. [5]
Ngày 14 tháng 11 năm 1974, Hội nghị các giám mục họp tại Nha Trang đã đưa ra quyết nghị về vấn đề Thờ Kính Tổ Tiên trong 6 điểm:
a. Bàn thờ Gia Tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa, miễn là không bày biện gì mê tín như hồn bạch.
b. Đốt hương, nhang, đèn, nến trước bàn thờ Tổ Tiên và những cử chỉ hiếu thảo tôn kính được phép làm.
c. Ngày “kỵ nhật” được cúng giỗ trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là bỏ những gì dị đoan mê tín như đốt vàng mã,… giảm thiểu, canh cải những lễ vật biểu dương ý nghĩa thành kính, biết ơn ông bà, như dâng hoa trái, hương đèn…
d. Trong hôn lễ, cô dâu, chú rể được làm lễ Tổ, lễ Gia Tiên vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính, trình diện với ông bà. Trong tang lễ, được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái lạy theo phong tục địa phương để tỏ lòng tôn kính người đã khuất.
f. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng tại đình làng để tỏ lòng cung kính biết ơn với những vị mà theo lịch sử  là có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không như mê tín đối với các “yêu thần”, “tà thần”[6].
Image
DÂNG HƯƠNG KÍNH NHỚ ÔNG BÀ CHA MẸ
Từ đó, chúng ta nhận thấy rằng Đạo Công Giáo luôn dành vị trí đặc biệt cho việc tôn kính Ông Bà Cha Mẹ, chỉ sau việc kính mến và thờ phượng Thiên Chúa. Qua việc cổ võ đạo Hiếu, đạo Công Giáo hướng con người tới việc hiểu biết tổ tiên đích thực của mình, chính là Thiên Chúa – Đấng đã dựng nên trời đất, sinh ra loài người chúng ta (St 1-2, 4a). Việc tôn kính ấy được thể hiện qua việc thảo hiếu, chăm sóc, phụng dưỡng lúc các ngài còn sống cũng như khi đã qua đời. Tuy nhiên, điều mang lại hy vọng tích cực nơi người Công Giáo, họ tin rằng con người có hồn thiêng bất tử, sau khi chết, hồn không thể hưởng thụ những gì là vật chất, mà cũng chỉ dùng thứ lương thực thiêng liêng để được hưởng hạnh phúc muôn đời bên Thiên Chúa. Vì thế, phụng vụ Giáo Hội cũng dành ưu tiên cho việc tôn kính Ông Bà Tổ Tiên khi dành ngày muồng hai Tết và suốt cả tháng 11 Dương lịch để kính nhớ các ngài, đặc biệt trong Kinh Nguyện Thánh Thể được đọc trong các thánh lễ mà người công giáo cử hành mỗi ngày, đã dành phần cầu nguyện cho “anh chị em đã ly trần, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc…”. Có nơi, theo truyền thống nếu vào ngay thứ hai trong tuần khi không có lễ kính hay lễ nhớ thì vị linh mục sẽ dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn Ông Bà Tổ Tiên.
Tóm lại, từ những ý tưởng trình bày trên, ta thấy quan điểm của Giáo Hội Công Giáo với Ông Bà Tổ Tiên. Việc tôn kính Ông Bà Tổ Tiên không nghịch lại với niềm tin Công Giáo. Trái lại, Đạo Công Giáo luôn cổ vũ khích lệ lòng hiếu kính với Ông Bà Tổ Tiên. Khi vào Việt Nam, Đạo Công giáo đã làm phong phú thêm kho tàng văn hóa của dân tộc, Đạo Công giáo không phá hủy truyền thống dân tộc, nhưng nâng cao và kiện toàn như Công Đồng Vatican II đã nhận định: “Những gì tốt đẹp trong tâm hồn và tư tưởng của loài người hoặc trong nghi lễ và văn hóa riêng của các dân tộc, hoạt động của Hội Thánh không nhằm tiêu diệt, nhưng làm cho lành mạnh, nâng cao và kiện toàn, hầu làm vinh danh Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người”[7]. Vì lẽ đó, người Công Giáo luôn được mời gọi tuân theo luật Chúa dạy chu toàn bổn phận thảo hiếu với Ông Bà Tổ Tiên. Đồng thời, loan truyền Tin Mừng bằng cách chia sẻ với những người không cùng tôn giáo trong những dịp mừng thọ, an táng, những dịp giỗ hay lễ hội… để mọi người có cái nhìn và hiểu đúng về Đạo Công giáo, nhờ đó xóa đi rào cản ngăn cách và xây dựng một xã hội bác ái yêu thương hơn.

Giuse Nguyễn Văn Quyền
Đại chủng viện Vinh Thanh