Thứ Hai, 11 tháng 10, 2021

Cha Do.

 Cha Do.

Có thể là hình ảnh về đường và bầu trời
Trăn trở về tiền nhân
Trích sơ thảo ”Kon Tum ngày cũ”, NXB Hội Nhà văn, Đào Duy An chủ biên
Uống nước nhớ nguồn
Truyền ngôn Việt tộc
Đào Duy An
Dẫn
Ai tính được bao nhiêu sinh linh đã lướt qua Kon Tum?
Ai quằn quại nỗi đau sinh thành?
Đây, trăn trở của một con dân Kon Tum…
“Thành phố Kon Tum cần có một con đường mang tên Nguyễn Do
Lê Minh Sơn
Ngày 9/2/1913 Toàn quyền Đông Dương Albert Pierre Sarraut kí thành lập tỉnh Kon Tum dưới tên gọi ‘tỉnh Mọi Kon Tum’ (Province Moï de Kon Tum), trên cơ sở tái lập vùng lãnh thổ thuộc tỉnh Pleiku Der cũ gồm đại lí Kon Tum (trung tâm hành chính Kon Tum) tách từ tỉnh Bình Định, đại lí Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và đại lí Đắk Lắk.
Khoảng năm 1842-1848 nhiều người Kinh đến vùng này.
Tất cả tài liệu về hình thành Kon Tum từ trước đến nay đều ghi công một người trẻ tuổi, can đảm, thông minh, tháo vát… đã làm gạch nối, góp phần quan trọng khai mở tấm màn kín cao nguyên Kon Tum, để Kon Tum từ đấy hoà nhập với cả nước. Con người này mang sứ mệnh truyền đạo Công giáo lên Kon Tum và gắn bó với Kon Tum, góp phần tạo lập nên những làng mạc, nông trại đầu tiên trên miền đất này và từ những cơ sở ban đầu đó, Kon Tum dần dần phát triển. Người đó chính là Nguyễn Do, tức Thầy Sáu Do hay Linh mục Nguyễn Do-Bok Lành như người bản địa thường gọi (theo bản tính hiền lành của ngài).
Về công việc, đóng góp và đức hạnh của Cha Do đối với Kon Tum, chúng ta có thể đọc trong rất nhiều tác phẩm đã xuất bản: (1) Từ những chứng từ của các đồng sự, của những người đương thời, và cả những ghi chép, tìm hiểu đối chứng của kẻ hậu sinh bao gồm các học giả Tây-Việt, đồng bào Kinh-Thượng, Công giáo hoặc đạo khác, cùng hàng trăm bài báo, bài nghiên cứu in trong các tạp chí, báo chí từ trước đến nay…; (2) Có thể kể một số tác phẩm có giá trị lịch sử như Les Sauvages Bahnars (P. Dourisboure, Paris, 1873 mà bản Việt ngữ là “Dân Làng Hồ”, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008), Hạnh đức Cha Thể (R.P.Tardieu, Nhà in Lang-song, Quinhon, năm 1907), Hlabar Tơbang (ấn bản tiếng Ba Na, Nhà in Hnam trưng Cuénot, Kon Tum, năm 1911), Mở đạo Kon Tum (P. Ban và S. Thiệt, Nhà in Quy Nhơn, 5/1933), Kon Tum tỉnh chí (Võ Chuẩn, Nam Phong Tạp chí số 191-194, 10/1933-5/1934), Mọi Kon Tum (Nguyễn Đổng Chi và Nguyễn Kinh Chi, Nhà in Mirador, Huế, năm 1937), Cao nguyên miền Thượng (Cửu Long Giang-Toan Ánh, Sài Gòn, năm 1974), các bài trong các tạp chí trước đây như Đô thành Hiếu cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế), Phụ nữ Ngày nay, một số sách và tạp chí sau năm 1975 như Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (của Viện Nghiên cứu Tôn giáo). Tựu trung các tài liệu đều khẳng định vai trò tiên phong của Cha Do, xét trên cả hai bình diện: (1) Truyền đạo Công giáo đến với đồng bào Thượng và (2) Quy tụ lớp người Kinh đầu tiên hình thành nên làng Tân Hương, làng người Kinh đầu tiên của tỉnh Kon Tum và là tiền thân Thành phố Kon Tum. Đánh giá bao trùm rằng Cha Do là một con người đạo đời hài hoà, được mọi thành phần dân chúng Kon Tum thương mến và kính phục.
Vậy Cha Do là ai?
Chúng ta có thể lược đôi dòng tiểu sử, tuy chưa thật đầy đủ nhưng khá chân thực, được hai tác giả Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi thuật trong Mọi Kon Tum. Theo đó, trong lớp người Kinh đầu tiên lên Kon Tum: ‘Có Cha Do là người có công lao hơn cả, lịch sử đáng kể lại để làm gương cho người sau”; ‘Nguyên xưa Cha Do là con một nhà mộ đạo Thiên Chúa ở làng Đồng Hâu, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Người có tính hiền hậu, thông minh và nhẫn nại. Thuở nhỏ được chọn đi học trường cố ở đảo Pinang, đậu đến chức thầy năm. Sau trở về tỉnh nhà được vào sở Gò Thị giúp việc cho các cha cố. Vào khoảng cuối niên hiệu Thiệu Trị và đầu niên hiệu Tự Đức ở nước ta có lệnh bắt đạo một cách dữ dội. Người giáo phải trải qua một thời kỳ khủng bố gớm ghê. Buổi ấy Giám mục Cuénot ở Gò Thị muốn kiếm một chỗ ở trên dãy Trường Sơn, trước để cha cố lên giảng đạo cho người thổ, sau để giáo dân có nơi tị nạn nhưng thời bây giờ, ngoài con đường An Sơn, không có nẻo nào lên Mọi được nữa. Vị Giám mục bèn uỷ thác cho Thầy Do đi kiếm một con đường khác lên xứ Mọi để khỏi tiết lộ mưu cơ ra. Thầy Do chẳng quản khó nhọc và gian nan, khi trá hình làm đầy tớ, khi tự làm nhà lái buôn, lên Mọi xem xét tình thế và kiếm ra một lối mới ở Trạm Gỗ (phía bắc An Khê). Kiếm ra được đường lối rồi, Thầy Do về trình cho bề trên và dẫn các cố cùng người tuỳ tùng lên. Thầy cũng ở lại giúp việc. Năm 1852 Thầy Do trở về Bình Định, học thêm và thi đậu chức thầy cả. Đường đường một vị linh mục, Cha Do mới trở lên Kon Tum, cùng các cố Tây, đem hết tài lực ra thi thố: Nào giảng đạo, nào lập làng, nào dạy vẽ cày bừa cho người Mọi. Cha Do ở Kon Tum hơn hai mươi năm. Đến năm 1872 thụ bịnh nặng nên phải trở xuống đồng bằng và qua đời ở cố hương.
Cha Do chẳng những là một vị linh mục lỗi lạc mà còn là một nhà ngoại giao khôn khéo như khi ra về An Nam, lúc đã bị thần chết nắm tánh mạng rồi, thế mà muốn lấy cảm tình của dân Mọi đối với người Nam ta làm ăn trên đó nên Cha Do còn cho giết voi khoản đãi họ. Người Mọi ngày nay vẫn còn nhắc đến luôn. Họ thường khen rằng: ‘Bok Lanh rơgei jat manat kon nhôn bi tui’ (Ông Lành có lòng rộng rãi thương chúng ta khôn cùng).
Người Pháp khâm phục tài đức Cha Do lắm. Cố Dourisboure, là bạn thân của Cha Do, nói rằng: ‘Đứng trước những cảnh ngộ khó khăn mà người khác chắc phải ngã lòng nản chí, thời lòng phấn đấu của ông ấy tăng lên bội phần. Tôi đã từng thấy người đó gặp nhiều điều nguy hiểm mà vẫn bình tĩnh như không có sự gì xảy đến’. Giám mục Charbonnier nói rằng: ‘Cha Do là người đầu tiên trong bọn thợ lên đắp nền xây móng cho Hội Thánh xứ mọi mường, vừa mới tạ thế năm nay. Thật là một sự thiệt hại lớn cho chúng ta. Ông ấy là một vị linh mục siêng năng., làm việc không quản mệt nhọc, mà nhất là những lúc phải làm rạng danh Đức Chúa Cha thời không có điều khó gì là ổng không làm được. Danh tiếng lừng lẫy khắp nơi, chẳng những người bên giáo thương yêu mà người bên lương cũng kính trọng…’.
Đến năm 1907 bổn đạo Kon Tum cất hài cốt Cha Do ở Đồng Hậu (nay là Tam Quan, Hoài Nhơn, Bình Định) lên táng ở Nghĩa địa Đất Thánh’.
Điều trăn trở là Thành phố Kon Tum chưa có con đường nào mang tên Nguyễn Do. ‘Ăn quả nhớ kẻ trồng cây’ là đạo lí Việt tộc. Trong bối cảnh của Kon Tum thời kỳ sơ khai, Cha Do với hai mươi bốn năm (1848-1872) sống ở Kon Tum, đã đóng góp quan trọng cho Kon Tum. Di sản của ngài cho đồng bào Kinh-Thượng vẫn còn rất đậm. Thật mâu thuẫn khi ca ngợi các công trình tôn giáo đặc sắc hàng trăm năm tuổi như nhà thờ Gỗ, chủng viện Thừa sai Kon Tum, nhà thờ Tân Hương… mà lại không kính trọng người đã đặt nền móng đầu tiên và vững chắc.
Thật ra, trước năm 1975, ở Kon Tum đã từng có một con đường được đặt tên ‘Bok Do’ nhưng sau đó mất tên. Nhiều nhà sử học và những người dân quyến Kon Tum lên tiếng về việc tên của những địa danh, làng mạc, đường phố tại Kon Tum từ sau năm 1975 bị đổi. Những tên làng xưa hàng trăm năm như Tân Hương, Phương Nghĩa, Phương Quý, Phương Hòa… gắn với những làng quê yên bình từ bao đời, gởi gắm ước vọng thương yêu, no ấm, hạnh phúc hay những đường phố như Bok Do, Bok Kiểm (Bok Kiơm), Câu Tài… gợi nhắc các bậc tiền hiền thuở lập làng, dựng phố hay tên gọi các làng của người bản địa đã bị xóa bỏ.
Nhiều nhân vật lịch sử Công giáo khác là tên đường nước Việt: (1) Tại Sài Gòn, ngoài vị thừa sai Alexandre de Rhodes (Quận 1, Thủ Đức), còn có đường Nguyễn Văn Bình (Quận 1), Trịnh Như Khuê (Bình Chánh), Hồ Ngọc Cẩn (Tân Bình), Nguyễn Bá Tòng (Tân Bình), các danh nhân Công giáo Nguyễn Trường Tộ (Quận 4, quận 9, Phú Nhuận, Tân Bình, Thủ Đức), Hàn Mặc Tử (Tân Bình), Mai Lão Bạng (Tân Bình), Trương Vĩnh Ký (Tân Bình) và (2) Tại Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế, năm 2011 đặt tên đường Đặng Đức Tuấn (linh mục, quê xã Hoài Châu Bắc, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, là người cùng quê và cùng thời với Cha Do và có mối quan hệ thân tình với Cha Do).
Con đường tên ‘Nguyễn Do’ trong Thành phố Kon Tum, càng gần dòng sông Đắk Bla càng có ý nghĩa bởi sinh thời Cha Do không chỉ rong ruổi trên những nẻo đường đất mà còn từng chèo sõng ngược xuôi dòng Đắk Bla để khám phá ra vùng đồng bằng rộng lớn và đẹp đẽ.
Cha Do đã làm một con đường rất đẹp nối liền hai làng Rơ Hai và Đắk Cấm’ chính là đường Trần Phú ngày nay. Đường Trần Phú vẫn là một trong những con đường đẹp và tiện lợi nhất, không chỉ nối liền trung tâm Thành phố (làng Rơ Hai xưa-nhà thờ Tân Hương nay) với xã Đắk Cấm ở hướng bắc, mà còn mở ra các hướng đông-tây và tương lai đường Trần Phú nối dài chạy dọc bờ sông Đắk Bla, đến tận cầu treo Kon Klor, sẽ làm cho diện mạo Thành phố Kon Tum thay đổi đáng kể, rộng lớn hơn, đẹp đẽ hơn … Cha Do đã có công khai mở những con đường rất đẹp cho Kon Tum, chẳng lẽ lại không xứng đáng được đặt tên cho một con đường nào đó để mà kỷ niệm, để mà tưởng nhớ?
Đặt tên đường chẳng có ý nghĩa gì đối với người đã khuất nhưng lại thật có ý nghĩa đối với người sống. Chúng ta và thế hệ tương lai cần phải biết ơn tiền nhân đã từng chịu bao nhiêu gian khổ, lập làng dựng phố, để hôm nay ta có Thành phố Kon Tum. Biết ơn tiền nhân, giữ và phát triển di sản tiền nhân là đạo lí của mọi cá nhân và cộng đồng.
Chừng nào Thành phố Kon Tum có đường Nguyễn Do?”
Bạt
Tiền nhân sống là nhờ hậu sinh soi.“Sinh con rồi mới sinh cha/Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông”, truyền ngôn Việt tộc.
Les sauvages Ba-Hnars (Cochinchine Orientale): Souvenirs d'un missionnaire nhắc Cha Do 33 lần.
Thế giới biết tên Cha Do từ ngày 1873.
Ảnh. Đường Trần Phú, con đường Linh mục Nguyễn Do mở ngày 1865. Lê Vương Trị chụp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét