Ngày 3-9:Thánh Grêgôriô Cả giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh
Nghiên cứu đời
sống các giáo hoàng thời cổ sơ, người ta không thể không chú ý tới một
ngôi sao sáng nơi kinh thành bất diệt: Đức Thánh Cha Grêgôriô Cả
(Grégoire I). Ngài là cha chung của nhân loại, nhưng cũng là ân nhân đặc
biệt của Anh quốc. Nhờ Ngài mà phần lớn công dân Anh trở lại đạo công
giáo. Ngài có công chú giải Kinh thánh; phục hưng nhạc bình ca và tận
tâm trong nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên Chúa. Thánh Grêgôriô Cả đã khuất
bóng nhưng sức sống mãnh liệt và đời sống gương mẫu của Ngài vẫn triền
miên kéo dài qua các thế hệ.
Ngài xuất
thân trong một gia đình quý tộc ở Lamã. Thân phụ Ngài là Gô-diên
(Gordien) một nghị viện kỳ cựu và giàu có. Thân mẫu Ngài là bà Sin-vi
(Sylvie) một người mẹ đạo đức, ham mê đọc sách Thánh. Thời niên thiếu,
Grêgôriô là một trẻ xuất sắc linh hoạt, đạo đức và thông minh. Trong
khi đeo đuổi bút nghiên, Grêgôriô luôn luôn chiếm giải quán quân về học
hành cũng như về đức hạnh. Các giáo sư dạy Ngài đều ca tụng trí khôn
thông minh và khiếu thẩm mỹ đặc biệt của Grêgôriô .
Đến tuổi
trưởng thành, Grêgôriô giúp cha lo các công việc bảo vệ nền cộng hoà và
giữ chức thẩm phán trong thành phố La-mã, một vinh dự mà ít người đạt
được: nhưng Grêgôriô vẫn chưa thỏa mãn. Tâm hồn Ngài vẫn luôn xao xuyến
và muốn làm một công việc gì cho Giáo hội. Ngài khởi công xây cất 6 tu
viện ở Xi-xin (Sicilê), một ở La-mã và một nhà thờ nguy nga mang tên
thánh An-rê, nhà thờ đó được xây cất ngay trong tư dinh của cha Ngài.
Nhiệt thành phụng sự Chúa bằng cách nâng đỡ các tu viện chưa đủ, Ngài
còn bán tài sản rồi phân phát cho người nghèo khổ. Một ngày kia Ngài
quyết định cởi áo thẩm phán và ẩn mình trong tu viện. Từ đó Ngài bắt đầu
sống trầm mặc và suy niệm. Với thời gian Ngài đã trở nên một thầy dòng
gương mẫu. Khi cha bề trên từ trần, anh em trong dòng đồng thanh cử Ngài
lên kế vị. Đầu tiên với sự khiêm nhường chân thật, Ngài hết sức từ
chối. Nhưng vì anh em quá tín nhiệm nên Ngài phải cúi mình lãnh nhận
trọng trách đó. Đối với Grêgôriô làm bề trên là một việc bất đắc dĩ vì
Ngài muốn vâng lời hơn điều khiển. Nhưng ý Chúa muốn Ngài làm ngọn đèn
soi đàng dẫn lối cho anh em.
Một ngày
kia đi qua chợ, Grêgôriô rất ngạc nhiên khi thấy người ta mang bán trẻ
con ở chợ. Trông thấy bầy trẻ thơ ngây Ngài động lòng thương khóc: nhất
là khi biết những trẻ con đó đã bị bắt từ Anh quốc là nước chưa có đạo.
Bầu nhiệt huyết tông đồ đã khiến Ngài đáp tàu đến bái kiến Đức Giáo
Hoàng Biển đức I để xin Ngài phái người sang truyền giáo cho dân tộc
Anh, và chính Ngài đã tình nguyện lên đường.
Khi Đức
Giáo Hoàng Biển Đức I qua đời, Grêgôriô được triệu về kinh thành ánh
sáng. Đức Thánh Cha Pê-la-giô thấy Ngài, cho Ngài là một nhân vật xuất
sắc và tài ba đức độ, liền truyền chức phụ tế cho Ngài rồi sau đó lại
tấn phong cho Ngài làm hồng y và đặc cử làm khâm sứ tòa thánh cạnh hoàng
đế Ti-bê. Với lòng mộ mến tu viện sẵn có, Đức Hồng y Grêgôriô không
muốn bỏ các thầy dòng, Ngài tìm cách di cư tu viện tới Ti-bê để tiện
việc hướng dẫn.
Ngoài trách
nhiệm nặng nề của vị đặc sứ tòa thánh và công việc hướng dẫn các tu sĩ
trên đường tu đức, Đức hồng y Grêgôriô còn soạn một bộ sách thời danh
bàn về luân lý trong sách Giop. Ngoài ra Ngài lại phải đương đâu với một
cuộc tranh luận gay go với Ê-ti-kio (Eutychius). Ông này chủ trương xác
người ta sẽ sống lại, nhưng không sống với chính bản tính của thể xác;
nghĩa là sau khi sống lại thì thể xác không có thịt và xương, Grêgôriô
phải tìm nhiều lý chứng để bênh vực chân lý. Với óc suy luận sâu sắc và
với giáo lý căn bản, Ngài đã thuyết phục được Ê-ti-kiô. Thánh nhân nói:
Chúng ta sẽ sống lại với chính bản tính hiện có của thể xác. Và Thiên
Chúa sẽ ban thêm cho ưu phẩm bất tử; vì khi sống lại Chúa Giêsu đã nói
với các môn đệ: Hãy xem chân tay Thầy đây, các con hãy chạm tới thầy”.
Nhưng thánh
ý Chúa nhiệm mầu đã muốn dùng Grêgôriô để làm những việc trọng đại
hơn. Chúa đã muốn Ngài nên ngọn đèn sáng, soi đường dẫn lối cho muôn
người. Sau khi Đức Giáo Hoàng Pê-la-giô ly trần; toàn thể giáo sĩ và
giáo dân đều bỏ thăm chọn Ngài làm cha chung. Hay tin Grêgôriô liền cải
trang và bí mật trốn ra khỏi thành La-mã, rồi băng rừng vượt suối sống
lang thang nay đây mai đó trong những hang súc vật. Nhưng Thiên Chúa đã
muốn tuyển Ngài làm Đấng chăn chiên tối cao, nên dù Ngài trốn lẩn ở đâu,
người ta cũng tìm thấy Ngài.
Ngày 3
tháng 11 năm 590, trong khung cảnh trang nghiêm của thánh đường Thánh
Phêrô Thiên Chúa đã chính thức phong Ngài làm Giáo Hoàng, tất cả hàng
giáo phẩm và giáo dân hân hoan trong niềm vui toại nguyện. Từ đây Đức
Giáo Hoàng Grêgôriô hết tâm cầm lái con thuyền Giáo hội. Ngài đã làm
sáng danh Chúa và mưu ích cho nhân loại trong việc cải tiến những cổ tục
đồi bại; tu bổ lại các nền tu đức, phục hưng tinh thần phụng vụ, phát
động những phong trào xã hội hầu cải tiến dân sinh. Dưới triều Ngài,
La-mã không những không chỉ là một đền thánh, nhưng còn là một trung tâm
phát triển mỹ nghệ và khoa học. Nhiều nhân vật quyền thế và nhiều hiệp
sĩ nổi danh đã bỏ nghề đao kiếm để vào tu thân trong kinh thành ánh
sáng. Hơn thế, Thiên Chúa còn ban cho Đức Giáo Hoàng Grêgôriô đặc ân
làm nhiều phép lạ.
Ngày kia
một thiếu phụ đến dâng bánh cho Ngài làm lễ. Tới khi đọc xong câu: “Xin
Mình Thánh Chúa giữ hồn con được sống đời đời”. Ngài trao Mình Thánh
Chúa cho bà chịu, nhưng bà đó lại mỉm cười một cách ngạo mạn, Ngài không
cho bà chịu lễ nữa rồi tiếp tục lên bàn thờ làm lễ. Lễ xong, Đức Thánh
Cha xuống hỏi bà lý do tại sao bà cười trước khi rước lễ và phải trả lời
to tiếng trước mặt mọi người vì bà đã làm gương xấu trước mặt công
chúng. Sau một lúc suy nghĩ, thiếu phụ nói trước mặt Đức Thánh Cha và
cộng đoàn rằng: “Tôi không tin bánh từ tay tôi làm lại có thể thành Mình
thịt Chúa”. Nghe vậy, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô lên quì gối trước mặt
bàn thờ đọc kinh cầu nguyện với các tín hữu. Ngài tha thiết xin Chúa làm
phép lạ mở mắt thiếu phụ bất tín này. Sau giây phút cầu nguyện, bỗng
nhiên Mình Thánh trên bàn thờ biến hình sáng láng. Thấy vậy, thiếu phụ
động lòng hối cải, các tín hữu cũng thêm đức tin và yêu mến Thánh Thể
hơn.
Lần khác
các sứ giả đến Lamã xin Đức thánh cha ban xương Thánh để mang về kính
trong nhà thờ. Ngài cắt từng miếng nhỏ rồi mang đến gần hài cốt các
thánh mà sứ giả muốn xin. Sau đó Ngài đăït các miếng vải ấy vào những
hộp nhỏ rồi giao cho các sứ giả mang về, trên đường hồi hương, các sứ
giả mở ra những hộp nhỏ xem thì không thấy xương thánh mà chỉ thấy những
miếng vải nhỏ. Họ nghĩ rằng: đức thánh cha đã nhầm, liền quay lại đức
thánh cha. Ngài mang cái hộp nhỏ đặt trên bàn thờ rồi sấp mình cầu
nguyện trước mặt các sứ giả. Sau một lúc, đức thánh cha lấy dao cắt
những miếng vải nhỏ thì bỗng thấy máu chảy đầm đìa. Trước phép lạ này,
các sứ giả bỡ ngỡ liền xin đức thánh cha ban lại các hộp đó và mang về
tôn kính trong nhà thờ.
Tuy quyền
cao chức trọng, nhưng đức Grêgôriô vẫn một niềm khiêm tốn, Ngài thường
ngồi ăn với kẻ nghèo hèn và thường rửa chân cho họ. Một ngày kia, Ngài
cầm bình nước đến rửa tay cho một người. Bỗng nhiên Ngài thấy họ biến
đâu mất. Đến đêm, Chúa Giêsu hiện ra nói với Ngài rằng: “Người mà con đã
tiếp hôm qua, đó là chính ta đấy”.
Lòng thương
người của Thánh Grêgôriô không đóng khung trong bốn bức tường của điện
Vatican, nhưng còn lan tràn khắp nước Ý và tỏa rộng khắp năm châu. Ngày
nay mỗi khi đọc những bức thư của Đức Grêgôriô ai lại không nhận thấy
lòng thương yêu vô lượng của vị cha chung đối với người túng thiếu và
bệnh tật ? Chứng kiến đời sống khắc khổ và những cử chỉ bác ái của đức
Grêgôriô, nhiều nhân vật trí thức và những người lạc giáo đã ăn năn trở
lại, đời sống thánh thiện của Ngài đã thành ngọn đèn hướng dẫn muôn
người, Nghiên cứu đời sống và hoàn cảnh xã hội, thời đức Grêgôriô nhiều
sử gia phải hạ bút kết luận bằng bốn chữ “Hoàng kim thời đại”.
Nhưng chúng
ta đừng vội tưởng triều đại của Ngài không gặp những khó khăn. Trái lại
Ngài phải thường đường đầu với một số địch thủ luôn luôn muốn triệt hạ
Ngài. Một hiệp sĩ La mã vì ly dị với vợ để chung sống với một thiếu phụ
khác, đã bị Đức Grêgôriô thẳng thắn phạt vạ tuyệt thông. Uất hận, ông
cho người đi mời các pháp sư danh tiếng đến để bày mưu hạ sát Đức Thánh
cha. Họ dùng tà thuật gọi quỉ nhập vào con ngựa Đức thánh cha thường cỡi
để nó vật ngã và dày xéo Ngài. Một ngày kia, Đức Thánh Cha cỡi ngựa ra
ngoài thành. Bỗng nhiên thấy ngựa bất kham như muốn vật ngã mình xuống
đất. Nhưng Thiên Chúa thông minh vô cùng đã cho Ngài biết âm mưu của bọn
pháp sư, Ngài giơ tay làm dấu thánh giá, tức thì quỉ sợ lãi la hét ầm ỹ
rồi trốn ra khỏi ngựa, chứng kiến phép lạ này, các pháp sư đều đồng tâm
hối cải và xin thụ giáo. Sau một thời gian học tập, chính bàn tay khả
kính và đầy lòng thương yêu ấy đã rửa tội cho các hối nhân. Với tấm lòng
nhân từ của người cha, và lòng quảng đại vô biên, Ngài luôn mở rộng cửa
lòng tiếp đón hết mọi hạng người.
Và đó chính
là lý do cuộc va chạm giữa Đức Giáo Hoàng và hoàng đế Mô-ri (Maurice).
Hoàng đế Mô-ri thấy đa số những quân nhân sau khi đã được lệnh giải ngũ
đều xin nhập vào hàng giáo phẩm hay các cộng đồng tu sĩ. Vì thế, vịn vào
lẽ: nếu nước có biến thì ai chống giữ biên cương, vua liền ra lệnh cấm
quân nhân giải ngũ đi tu. Vì ích lợi cho các linh hồn Đức Grêgôriô liền
viết thư cho các hoàng đế: “Nhân danh Chúa Kitô, tôi nói cho các hoàng
đế biết rằng: Tôi đã đặt các linh mục để giúp đỡ triều đại của Ngài.
Nhưng tại sao Ngài muốn thu hồi những quan nhân muốn sống đời tận hiến,
Ngài hãy kiểm thảo lương tâm, Ngài sẽ trả lời làm sao khi Chúa Giêsu đến
luận án Ngài ?” Tuy mềm lòng, hoàng đế vẫn cương quyết giữ vững lập
trường và làm cho người cha già ngày càng thêm âu lo. Cho tới một ngày
kia, Mô-ri thấy một thầy dòng tay cầm gươm đứng trên thành nói với ông:
“Môri, ngươi sẽ chết dưới lưỡi gươm này”. Thấy thế Môri hoảng sợ và giác
ngộ. Vua đến xin Đức Grêgôriô thứ lỗi, đồng thời mang nhiều tài sản
cho các nhà dòng để xin các thầy cầu nguyện. Chúa tha thứ tội ác cho vua
đã xúc phạm đến Đức Giáo Hoàng .
Đại diện
Thiên Chúa, để dìu dắt nhân loại, nhưng Đức Grêgôriô vẫn một niềm khiêm
tốn. Ngài xưng mình là tôi đòi của những đầy tớ Chúa (Servus servorum
dei). Lời nói đi đôi với việc làm. Một ngày kia, cha Gioan một linh mục
người Batư đến bái kiến Ngài. Trước khi linh mục sấp mình xuống hôn nhẫn
của Đức Thánh Cha, thì Đức Thánh Cha đã vội sấp mình xuống trước Gioan
cho tới khi linh mục đó chỗi dậy. Rồi trong thời gian linh mục Gioan lưu
trú tại điện Vatican, chính Đức Giáo Hoàng thường đến thăm và giúp đỡ
cha mọi sự cần thiết.
Thời gian
đã nhuộm trắng mái tóc của vị cha già và trách nhiệm cao cả đã đè nặng
trên vai đức Grêgôriô trong suốt 14 năm trường. Mỗi khi trông thấy
Ngài, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa muốn thanh luyện Ngài thánh một
vị thánh sống, nhất là hai năm cuối triều, khi Ngài chịu bệnh nằm liệt
trên giường.
Sang đầu
năm 604, bệnh tình đức thánh cha trở nên trầm trọng. Vào ngày 12 tháng 3
Ngài trút linh hồn trong tay Chúa giữa sự nhớ thương của đoàn con khắp
bốn phương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét