TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT
Lê Văn Duyệt (1763 hoặc 1764 ( 28 tháng 8 năm 1832) còn gọi là Tả Quân Duyệt
Là một nhà chính trị, nhà quân sự lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong các chỉ huy chính của quân đội chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn. Khi chiến tranh kết thúc và nhà Nguyễn được thành lập, ông trở thành một đại thần, phục vụ hai triều vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) và Minh Mạng.
Ông NỘI của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Hiếu từ làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi vào đây sinh sống. Tổ tiên ông có nguồn gốc xa xưa ở làng Tề Lỗ, huyện Yên Lạc, tỉnh Sơn Tây (về sau thuộc tỉnh Vĩnh Yên, nay là tỉnh Vĩnh Phúc). Sau khi Lê Văn Hiếu qua đời vì dịch bệnh thiên thời,[4] cha ông là Lê Văn Toại rời vùng Trà Lọt đến ngụ tại vùng Rạch Gầm, làng Long Hưng, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường, về sau gọi là xã Long Hưng thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang).
Lê Văn Toại có tất cả bốn người con trai Lê Văn Duyệt là con trưởng. Sử cũ mô tả ông là người thấp bé, nhưng lại có sức mạnh hơn người, từng được coi là một trong "ngũ hổ tướng" ở Gia Định.
Nên ông sinh ra tại Tiền Giang. Lê Văn Duyệt gia nhập quân đội Gia Định
Cùng chúa Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn từ năm 1781.
Ông cầm quân thắng nhiều trận lớn, nên nhanh chóng thăng tiến tới chức CHỈ HUY TẢ QUÂN vào thời điểm cuộc chiến kết thúc.
Sau khi nhà Nguyễn thành lập, ông trở thành một vị quan, tướng quân giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều đình
Nhiều lần công cán ở cả phía Bắc thành và hai lần được cử làm Tổng trấn Gia Định Thành.
Việc cai trị của ông đã GÓP CÔNG LỚN giúp ổn định và phát triển khu vực Nam kỳ, khiến cho vùng này từ một khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh thành một khu vực BÌNH YÊN VÀ GIÀU CÓ
Thêm vào đó
-Lê Văn Duyệt phản đối việc nối ngôi của Minh Mạng
-Đồng thời ông bảo vệ các tín đồ Công giáo khỏi chính sách bế quan tỏa cảng và trọng Nho giáo của nhà vua.
Những việc này đã khiến ông thường xuyên xung đột với vua Minh Mạng
Dẫn đến việc triều đình đã hạch tội
Và cho phá mộ sau khi Lê Văn Duyệt mất. Vì việc này, người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi đã nổi dậy chống lại triều đình.
Sau khi cuộc nổi dậy bị dập tắt, Lê Văn Duyệt tiếp tục bị truy tội đến mãi đời Vua Thiệu Trị thì vụ án mới được xét lại, và ông mới được phục hồi danh dự.
THEO CHÚA NGUYỄN CHỒNG TÂY SƠN
NĂM 1781, một lần chúa Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi chạy đến Trà Lọt, có ngụ tại nhà ông Lê Văn Toại. Cảm ơn cưu mang, Lê Văn Duyệt được Chúa Nguyễn tuyển dụng làm thái giám, lãnh nhiệm vụ bảo vệ cung quyến. Lúc bấy giờ, ông vừa tròn 17 tuổi.
Theo sách Quốc triều sử toát yếu thì trong trận đánh tại Đồng Văn, ông bị quân Tây Sơn bắt, nhưng sau đó trốn về được. Tháng 11 (âm lịch) năm 1784, ông gặp lại Nguyễn Phúc Ánh, rồi gắn bó chặt chẽ với vị chúa này, trong đó có hai lần ông hộ giá Chúa Nguyễn sang Xiêm (Thái Lan).
NĂM 1793 Tháng 11 (âm lịch) Lê Văn Duyệt được Nguyễn Ánh phong làm thuộc NỘI VỆ ÚY vì "tuy sinh ra làm người (thái) giám, (nhưng là) người mạnh mà đánh giỏi, có công tùng chinh". Kể từ đó, Chúa Nguyễn thường bàn việc binh với Lê Văn Duyệt.
NĂM 1800 Tháng 11 (âm lịch) ông được cử theo Tiết chế Nguyễn Văn Thành. Hai ông hợp quân đánh thắng một trận lớn, nhưng sau đó nảy sinh hiềm khích. Cũng sách trên chép: ...Thành hay uống rượu, lúc gần ra trận, cầm hồ rót rượu, rót cho Duyệt một chén và nói rằng: "Uống rượu để thêm sức mạnh". Ông Duyệt nói: "Ai tánh hay sợ mới uống rượu để cho thêm sức mạnh, còn như tôi. thời trước mắt không coi (đó là) trận dữ, cần chi phải uống rượu". Thành có ý thẹn, từ đó giận ghét Duyệt.
NĂM 1801 Tháng Giêng (âm lịch) Lê Văn Duyệt cùng chúa Nguyễn và các tướng là Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại (trận Thị Nại năm 1801)). Khi lâm trận, tướng Võ Di Nguy bị trúng đạn chết, ông Duyệt càng gắng sức đánh, đốt phá gần hết binh thuyền Tây Sơn. Trận ấy được khen là "võ công đệ nhất" của nhà Nguyễn và là VÕ CÔNG LỚN NHẤT của Lê Văn Duyệt
Tháng 4 (âm lịch) cùng năm, ông theo chúa Nguyễn ra đánh Phú Xuân. Tháng sau, đại binh vào cửa Tư Hiền, ông và Lê Chất phá được đồn quân Tây Sơn ở Quy sơn (tức núi Linh Thái), bắt sống được Phò mã Nguyễn Văn Trị và Đô đốc Phan Văn Sách.
Đến ngày 3 tháng 5 (tức ngày 15 tháng 6 năm 1801), ông cùng chúa Nguyễn tiến vào nội thành Phú Xuân sau khi đánh tan đội thủy quân của nhà Tây Sơn, khiến Vua Cảnh Thịnh phải tháo chạy ra Bắc.
Sau đó, chúa Nguyễn sai Tiết chế Lê Văn Duyệt (có Lê Chất đi theo) đem quân bộ vào Quảng Nam, Tống Viết Phước (hay Phúc) đem quân thủy, chia đường vào cứu thành Bình Định. Dọc đường, Lê Văn Duyệt đánh thắng nhiều trận, nhưng không kịp cứu quận công Võ Tánh và Lễ bộ Ngô Tùng Châu. Vì lương hết, hai ông đều đã tuẫn tiết vào cuối tháng 5 (âm lịch) năm 1801.
Xét công, chúa Nguyễn phong Lê Văn Duyệt làm "THẦN SÁCH QUÂN CHƯỞNG TẢ DINH ĐÔ THỐNG CHẾ QUẬN CÔNG. Lại cho Lê Chất làm tướng dưới quyền, để cùng mang quân đi thu phục các nơi.
NĂM 1802 Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (tức 31 tháng 5 năm 1802), chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi tại Phú Xuân, đặt niên hiệu là Gia Long.
Lê Văn Duyệt được phong làm "KHÂM SAI CHƯỞNG TẢ QUÂN DINH BÌNH TÂY TƯỚNG QUÂN, TƯỚC QUẬN CÔNG để cùng với Lê Chất đem bộ binh ra Bắc truy diệt vua quan nhà Tây Sơn. Theo phối hợp còn có binh thuyền do tướng Nguyễn Văn Trương chỉ huy. Đến tháng 6 (âm lịch), thì quân bộ sang Linh giang (tức sông Gianh ở Quảng Bình) rồi hiệp với quân thủy đánh lấy Nghệ An, Thanh Hóa, và Thăng Long.
Đến lúc ấy, nhà Tây Sơn kể như BỊ DIỆT
LÀM ĐẠI THẦN NHÀ NGUYỄN
DƯỚI TRIỀU GIA LONG
NĂM 1803 Tháng 3 (âm lịch) Lê Văn Duyệt PHÁ TAN CUỘC NỔI DẬY của người dân thiểu số ở Đá Vách (Quảng Nghĩa, nay là Quảng Ngãi), được vua khen thưởng.
NĂM 1803 Tháng 8 (âm lịch) năm đó, cha ông – Lê Văn Toại được vua cho mời ra Huế ban khăn áo.
NĂM 1808, lại sai Lê Văn Duyệt mang quân đến Đá Vách. Thấy Phó quản cơ Lê Quốc Huy, vì nhiễu hại quá, nên dân mới nổi dậy. Lê Văn Duyệt bèn xin lệnh chém chết viên quan này, từ đó Quảng Nghĩa lại được yên.
NĂM 1812 Tháng 6 (âm lịch) vua cho triệu tổng trấn Gia Định thành Nguyễn Văn Nhơn về, cử Lê Văn Duyệt vào thay và cho Trương Tấn Bửu làm phó tổng trấn, Ngô Nhân Tịnh làm hiệp (tổng) trấn.
NĂM 1813 Tháng 2 (âm lịch) nhận lệnh vua, Lê Văn Duyệt và hiệp trấn Ngô Nhân Tĩnh đem 13.000 quân thủy ĐƯA NẶC CHÂN về NƯỚC CHÂN LẠP (Campuchia ngày nay).
Tại đây, ông thấy quân Xiêm cứ dòm ngó Chân Lạp, bèn xin Gia Long cho đắp thành Nam Vang cho vua nước này ở (trước đó ở thành La Bích), đắp thành Lô Yêm để trữ lương, đồng thời lưu binh ở lại bảo hộ (Nguyễn Văn Thoại được cử ở lại). Tất cả đều được vua nghe theo
NĂM 1815, Lê Văn Duyệt được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi thái tử. Khi ấy, Nguyễn Huỳnh Đức thay ông làm tổng trấn và Trịnh Hoài Đức làm hiệp trấn.
NĂM 1816 Tháng 4 (âm lịch) vua ra lệnh thâu ấn của Nguyễn Văn Thành, giam Nguyễn Văn Tuyên (con ông Thành) vào ngục, vì ông Tuyên có làm một bài thơ bị Lê Văn Duyệt (vốn có hiềm khích với ông Thành từ trước) cho là có ý mưu phản
Sang tháng 5 (âm lịch) năm đó, dân thiểu số ở Đá Vách lại nổi dậy, Trấn thủ Phan Tấn Hoàng đánh bị thua. Gia Long lại sai Lê Văn Duyệt đem quân tới đàn áp được.
NĂM 1819 Tháng Giêng (âm lịch) Lê Văn Duyệt nhận mệnh đi kinh lược các vùng: Thanh Hóa, Nghệ An và Thanh Bình (nay đổi là Ninh Bình). Vì các nơi ấy thường mất mùa, sinh ra nhiều trộm cướp, QUAN SỞ TẠI KHÔNG KIỀM CHẾ ĐƯỢC.. Đến nơi, ông dâng sớ về triều "nói việc khổ của dân, ÔNG XIN THA THUẾ CHO DÂN lại phải lựa quan trấn để an dân", và được vua y cho
Ở Thanh Hóa, ông nhận Lê Văn Khôi làm con nuôi. Ông Khôi nguyên là người ở Cao Bằng, vì khởi binh chống Nguyễn, bị quan quân đuổi đánh, phải chạy vào Thanh Hóa, gặp ông Duyệt đang làm Kinh lược ở đấy, bèn xin ra đầu thú
Tháng 9 (âm lịch), vua triệu Lê Văn Duyệt về triều. Sang tháng 12 (âm lịch), Gia Long cho đòi ông và Phạm Đăng Hưng vào cung lãnh di chiếu, tôn Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi (tức vua Minh Mạng) đồng thời cho ông Duyệt cai quản quân 5 dinh Thần sách.
Cũng trong năm này, theo Vũ Man tạp lục của tướng Nguyễn Tấn và Viêm Giao trưng cổ ký của Cao Xuân Dục, thuận theo lời tâu của Lê Văn Duyệt, Vua cho xây Trường lũy (Tĩnh Man trường lũy), dài xấp xỉ 200 km, bắt đầu từ huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đến huyện An Lão (Bình Định), ĐỂ PHÒNG NGỰ CÁC CUỘC NỔI DẬY của người thiểu số ở đây
DƯỚI TRIỀU MINH MẠNG
NĂM 1820, Minh Mạng cử Lê Văn Duyệt vào Nam làm TỔNG TRẤN GIA ĐỊNH THÀNH lần thứ hai, thay cho Nguyễn Huỳnh Đức vừa mất hồi tháng 9 (âm lịch) năm 1819.
Lúc bấy giờ, ở nước Chân Lạp có thầy tu tên Kế - SƯ KẾ vận động dân nổi dậy, cướp phá nhiều nơi thuộc trấn Phiên An.
Quan trấn là Đào Văn Lý cản ngăn không được. Khi ông Duyệt đến, bèn cử phó tổng trấn Huỳnh Công Lý đem quân đi đánh, đuổi quân SƯ KẾ chạy về Chân Lạp. Tháng 9 (âm lịch) năm ấy, SƯ KẾ xua quân vây hãm thành Nam Vang
Làm vua nước ấy phải đưa thư sang cáo cấp.
Xem thư, Lê Văn Duyệt liền sai thống chế Nguyễn Văn Trí đem quân sang cứu viện, đến tháng 10 (âm lịch) thì giết được SƯ KẾ và đánh tan quân nổi dậy.
Cũng vào tháng 9 (âm lịch) năm đó, phó tổng trấn Huỳnh Công Lý THAM LAM TRÁI PHÉP bị quân nhân tố cáo hơn mười việc.
Lê Văn Duyệt đem việc ấy tâu lên. Sau khi tra án, Huỳnh Công Lý bị khép vào tội chết (1821) Khâm sai chưởng dinh lĩnh Trung quân phó tướng THỤ LÝ ÁN VỤ là Trương Tiến Bửu lĩnh chức Phó tổng trấn thành Gia Định.
NĂM 1822 Tháng 10 (âm lịch) vua sai Lê Văn Duyệt điều động quân và dân (được hơn 39.000 người) để tiếp tục ĐÀO KÊNH VĨNH TẾ (đến tháng 5 âm lịch năm 1824 thì xong).
NĂM 1823 Tháng 8 (âm lịch) ông về kinh [Huế] chầu, Phó tổng trấn Trương Tấn Bửu quyền lĩnh ấn vụ Tổng trấn, nhưng Tấn Bửu ốm nên Tiền quân Trần Văn Năng làm Phó tổng trấn thay.
Sau đó, Lê Văn Duyệt về ở luôn Gia Định cho đến cuối đời.
Tháng 11 (âm lịch), Thị đốc học sĩ Trần Văn Tuân bị án giảo giam hậu, vì lời tâu của ông.
Trước đây, ông Tuân đi công cán ở Chân Lạp, được người Chân Lạp tin yêu; đến khi về lại Gia Định, người Chân Lạp vẫn thường qua lại đưa đồ và hỏi thăm.
Sau, nhân bắt được lá thư của vua Chân Lạp gửi cho ông Tuân, Lê Văn Duyệt bèn đem việc ấy chiểu theo luật "Giao thông ngoại cảnh" (tức luật ngoại giao với nước ngoài) mà tâu lên
Đêm 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn (tức 28 tháng 8 năm 1832) CHƯỞNG TẢ QUÂN LÃNH GIA ĐỊNH TỔNG TRẤN LÊ VĂN DUYỆT MẤT lúc đang tại chức, thọ 69 tuổi.
Sau đó, Triều đình truy tặng ông chức "TẢ VẬN CÔNG THẦN ĐẶC TẤN TRÁNG VÕ TƯỚNG QUÂN TẢ QUÂN ĐÔ THỐNG PHỦ CHƯỞNG PHỦ SỰ THÁI BẢO QUẬN CÔNG thụy là OAI NGHỊ.
Sau khi Lê Văn Duyệt mất, Minh Mạng cho bãi chức tổng trấn Gia Định thành
và đổi 5 trấn ra thành 6 tỉnh là:
-Gia Định
-Biên Hòa
-Vĩnh Long
-Định Tường
-An Giang
-và Hà Tiên
Lại đặt các chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lãnh binh như các tỉnh ở ngoài Bắc. Đến khi BẠCH XUÂN NGUYÊN đến làm BỐ CHÍNH tại Phiên An (tức tỉnh Gia Định)
Nói rằng phụng MẬT CHỈ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt
Rồi đòi hỏi chứng cứ, đồng thời trị tội các tôi tớ của ông Duyệt.
Vì bị bức, con nuôi ông Duyệt là LÊ VĂN KHÔI bèn khởi binh chống lại
Nhận được tin cáo cấp, Minh Mạng liền sai quân đi đánh dẹp, đồng thời ban trách Lê Văn Duyệt đã "che chở quân phỉ đảng, để gây nên bọn loạn" Tuy nhiên, theo một số tài liệu thì Minh Mạng vốn có thù hằn lâu ngày với Tả Quân Lê Văn Duyệt rất có thể vì:
Ông Duyệt không ủng hộ việc Minh Mạng lên ngôi mà ủng hộ con của Hoàng tử Cảnh khi Gia Long băng hà
Lê Văn Duyệt nhiều lần lạm quyền, hoặc làm sai ý triều đình đặc biệt là sau khi Gia Long qua đời.
Lê Văn Duyệt ít học, bản chất QUAN VÕ nóng nảy, nói năng cộc lốc, chẳng biết chiều đón ý Vua, khi tấu đối thường không vừa ý Minh Mạng
Ông Duyệt tỏ ý ŨNG HỘ các nhà truyền đạo Thiên Chúa châu Âu làm nghịch ý Minh Mạng
Ông Duyệt được hưởng quyền NHẬP TRIỀU BẤT BÁI (vào triều không phải lạy) từ thời Gia Long
nên sau này ông không lạy Minh Mạng. Điều này đã làm vua Minh Mạng khó chịu
Dù không ưa nhưng Minh Mạng chưa thể làm gì Lê Văn Duyệt, vì công lao và uy quyền của ông quá lớn
Cho nên sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1835), nhân Phan Bá Đạt ở Đô sát Viện dâng sớ kể tội Tả Quân,
Minh Mạng liền dụ cho đình thần NGHỊ XỬ. Nội các là Hà Văn Quyền, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Quỳnh dâng sớ tội trạng của Lê Văn Duyệt.
Đến khi nghị án xong, có bảy tội nên trảm (chém), hai tội nên giảo (thắt cổ), một tội phải sung quân (tự tiện bắt biền binh đóng thuyền).
Bảy điều đáng làm tội xử trảm (chém):
Sai người riêng đi Miến Điện kết ngoại giao.
Xin tống thuyền Anh Cát Lợi đến thành để tỏ có
Xin giết thị vệ Trần Văn Tình để khóa miệng người.
Kháng sớ giữ lại người được tuyên triệu điệu bổ quan viên.
Cậy bè đảng xin tăng thọ cho Lê Chất.
Chứa riêng giấy đóng ấn vua sẵn.
Gọi mả cha là LĂNG nói với người xưng là CÔ
Hai điều đáng xử tội giảo (thắt cổ):
Cố xin dung nạp Miến Điện để thỏa việc làm bậy.
Nói với người rằng xin được thơ phụ tiên có câu "Trần Kiều hoàng bào".
Án dâng lên, những người NGUYÊN NGHỊ TRẢM QUYẾT đều đổi làm
-trảm giam hậu,
-những đứa trẻ dưới 15 tuổi tạm giam lại.
-Những trẻ bé không biết gì thì tha không bắt.
-Phát nô 13 đứa đàn bà, đều tha cả.
-Việc chém xác cũng không thi hành.
Lạng Bình hộ phủ Trần Huy Phác xin những thê thiếp con cháu Duyệt đều xử trảm quyết.
Quảng Yên hộ phủ Lê Dục Đức tâu xin những đứa phạm 16 tuổi trở lên, đều xin đem giết đi.
Bình Phú Tổng đốc Vũ Xuân Cẩn, Ninh Thái Tổng đốc Hoàng Văn Trạm cũng xin y đình nghị, lại nói rằng hoặc nên lấy công bù tội, châm chước quyết định thế nào ra tự ơn trời.
Sau đó, Minh Mạng ra dụ có đoạn rằng:
Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bửa quan quách mà giết thây cũng là đáng tội.
Song nghĩ hắn chết đã lâu và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, chẳng cần gia hình chi cho uổng công
Vậy cho Tổng đốc Gia Định đến chỗ MÃ hắn cuốc bỏ núm mộ san bằng mặt đất và khắc đá dựng bia ở trên viết to mấy chữ: "Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ" (Chỗ này là nơi hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu hình phạt)
Sau đó, lệnh được thực hiện theo như lời dụ.
Ngoài ra, mộ cha mẹ ông ở Long Hưng (nay thuộc Châu Thành, Tiền Giang) cũng bị đục bỏ tước hiệu khắc trên bia
ĐƯỢC PHỤC HỒI DANH DỰ
Lê Văn Duyệt trên mặt trước tờ 100 đồng in năm 1966 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
NĂM 1841 Tân Sửu Vua THIỆU TRỊ lên ngôi, ban lệnh tha tội các thân thuộc của Lê Chất và Lê Văn Duyệt 9 năm sau.khi bị kết tội.
NĂM 1848 Tháng 2 (âm lịch) TỰ ĐỨC năm thứ nhất. Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin lục dụng những con cháu của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất.
Lời tâu làm Vua cảm động, bèn cho con cháu ông Thành làm Chánh đội,
Cho cháu Văn Duyệt là Điển làm chư quân Cai đội
NẰM 1849 TỰ ĐỨC năm thứ 2 , đình thần xin rửa tội cho Lê Văn Duyệt.
-Cấp trả khu vực mộ của Lê Văn Duyệt cho người cháu (gọi Văn Duyệt bằng ông chú bác) là Lê Văn Niên trông coi. -Mộ cha mẹ Lê Văn Duyệt ở thôn Long Thịnh cũng đều cho tu sửa.[33]
Tuy nhiên, mãi đến năm tháng 4 (âm lịch) năm 1868, nhà vua mới chính thức ban lệnh truy phục chức hàm cho : Nguyễn Văn Thành (là CHƯỞNG TRUNG QUÂN ĐẠI TƯỚNG QUÂN QUẬN CÔNG )
và Lê Văn Duyệt (là CHƯỞNG TẢ QUÂN ĐẠI TƯỚNG QUÂN )
Đồng thời cho thờ trong miếu Trung hưng công thần ở Huế
NHẬN XÉT KHÁI QUÁT
Không chỉ có tài QUÂN SỰ
Lê Văn Duyệt còn là một nhà CHÍNH TRỊ
Làm tổng trấn Gia Định Thành hai lần (lần 1: 1812-1816, lần 2: 1820 -1832)
Ông đã thực hiện chính sách trị an tốt, và có công lớn trong việc giữ gìn an ninh cho xứ sở.
-Ông cho đắp đường, đào kênh, củng cố thành lũy
-Lập hai cơ quan từ thiện là "Anh hài" và Giáo dưỡng ...
Đồng thời ông cũng có cách ứng xử khéo léo, rộng rãi đối với những người phương Tây đến buôn bán ở Sài Gòn.
Bấy giờ, nhiều người kính phục, gọi ông là "Ông Lớn Thượng", hay " Đức Thượng Công"... Một vài nước lân cận cũng tỏ ra kiêng nể ông
ĐỜI TƯ
Đến năm 17 tuổi thì ông mới hoạn để chính thức làm thái giám.
Thuở trẻ, ông thích đá gà, nuôi gà chọi. Ngoài ra, ông cũng là người sành thưởng thức hát bội và thường tự tay cầm chầu.
Có thể tư chất yếu đuối có phần hơi nữ tính khiến ông bị Minh Mạng đặt chữ chửi bới trên mộ rằng "lại cái" (quyền yêm).
Sau này, do ông lập được nhiều công lao, khi lên ngôi, Gia Long đã gả một người cung nhân tên là Đỗ Thị Phẫn (hay Phận) về làm vợ ông, dù ông là thái giám.
VỚI VỤ ÁN OAN TỐNG THỊ QUYÊN
Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, Quyển 2) chép:
Năm Minh Mạng thứ năm (1824), có người bí mật tố cáo rằng NGUYỄN PHÚC MỸ ĐƯƠNG thông dâm với mẹ ruột là Tống thị (Quyên). Tống thị vì thế thị dìm nước cho chết, còn Mỹ Đường thì phải giao trả hết ấn tín và dây thao, đồng thời bị giáng xuống làm thứ dân, con trai con gái chỉ được biên chép phụ ở phía sau sổ tôn thất...
Lúc bấy giờ có tin đồn người mật tâu là Lê Văn Duyệt.
Tuy nhiên, có người lại cho rằng đây là mưu sâu của nhà vua nhằm làm mất uy tín ông, đồng thời ly gián ông với phe ủng hộ "dòng trưởng" nối ngôi (tức ủng hộ Hoàng tôn Đán, tên thật là Nguyễn Phúc Mỹ Đường, con Hoàng tử Cảnh)
NGÔI MỘ CỦA TẢ QUÂN
Bài chi tiết: Lăng Lê Văn Duyệt
Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh, trong sách Gia Định xưa cho biết: "Theo lời các cố lão, ngôi mộ tại Gia Định Bình Hòa xã là ngôi mộ chôn bằng hình sáp
Còn hài cốt thật thì về an táng tại làng Long Hưng, thuộc tỉnh Định Tường. (Tiền Giang ngày nay)"[
Tuy nhiên, tháng 4 năm 2006, sau một cuộc khảo sát ông Lý Việt Dũng đã đưa ra kết quả ngược lại
DỰNG TƯỢNG
Ngày 4 tháng 2 năm 2008, tượng Tả Quân Lê Văn Duyệt đã được đặt trang trọng tại điện thờ tại Lăng Ông (số 1 đường Vũ Tùng, có cổng Tây tại số 126 đường Lê Văn Duyệt, phường 1, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh). Tượng được đúc bằng đồng nguyên chất, cao 2,65 m, nặng 3 tấn do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện. Đây là ý tưởng của tạp chí Xưa & nay và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
trong chương trình Đúc tượng đồng cho lăng Ông.
GIAO THIỆP VỚI NGOẠI QUỐC
NƯỚC ANH
NĂM 1822, đại sứ nước Anh John Crawfurd trên hành trình đi sứ Xiêm và Cochin China [Việt Nam] đã ghé Sài Gòn và có cuộc gặp với quan Tổng trấn thành Gia Định.
Crawfurd được biết rằng vua nước Cochin China hiện đang ở Huế, còn Chao-Kun [Tả Quân?] vị Thống đốc Lower Cochin China [Nam Kỳ], thì đang ở Saigun. Crawfurd nóng lòng được gặp vị quan ở SAIGON đó, bởi ngoại trừ Kachao [Kẻ Chợ] ở Tonquin [Đông Kinh], thì [Sài Gòn] là nơi giàu có nhất vương quốc này.[
Ngày 2 tháng 9 năm 1822, đoàn hơn 30 người của Crawfurd được dẫn đi gặp Tổng trấn Lê Văn Duyệt, Crawfurd và một số người được chở bằng năm con voi. Nơi tiếp khách trong thành Phiên An quá đơn sơ nếu so với chỗ của người Hoa.
Người Việt Nam có tục tiếp khách trên mấy cái bàn thấp (bộ ván ngựa), trải chiếu hoa lên trên, quan lớn thì ngồi hàng đầu, quan nhỏ ngồi lần lượt phía sau. Ở giữa sảnh đường là một bộ bàn hơi cao hơn mấy cái khác, dành cho quan Tổng trấn. Đoàn của Crawfurd được mời ngồi ghế, bên phải quan Tổng trấn. Ngồi bên trái quan Tổng trấn là vị Phó tổng trấn [Trương Tấn Bửu], vị quan già khoảng 70 tuổi trông đáng kính và đẹp lão. Quan Tổng trấn nghe đồn là một thái giám, nhưng không công khai, ông ta không có râu; tuy nhiên, người Việt dù có thích để râu thì không quá rậm rạp. Tiếng nói của quan Tổng trấn nhỏ nhẹ và khá giống giọng nữ nhưng không dễ nhận ra. Lúc này, vị Tổng trấn đã 58 tuổi, vẻ mặt sôi nổi và thông minh, ông ta hơi thấp bé và gầy, nhưng hoạt bát và không thấy cơ thể bị khuyết tật gì. Có điều, ông ta đã rụng khá nhiều răng. Ông ấy cũng ăn mặc giản dị với bộ đồ lụa và chiếc khăn quấn đầu màu đen.
Crawfurd tặng quà cho Tổng trấn, ông ấy từ chối, rất khác biệt với các vị quan tham lam ở Xiêm.
Một lần nữa, vị Tổng trấn lại đòi hỏi phải có thư của vua Anh gửi cho vua Việt, bởi vì chỉ có vua mới gửi thư cho vua.
Nếu chỉ có thư của Toàn quyền Ấn Độ [một vị quan] thì ông ấy chỉ giúp chuyển nó cho vị quan Tượng binh [Mandarin of Elephants], người kiêm nhiệm Ngoại giao ở Huế. Vị quan Tượng binh này có thể là Chưởng Tượng quân kiêm quản lý Thương bạc sự vụ Nguyễn Đức Xuyên. Quan Tổng trấn thậm chí còn không mở thư của Toàn quyền Hastings ra xem mà chỉ SỜ SƠ qua phong bì rồi trả lại Crawfurd. Ngoài ra, vị Tổng trấn còn mời đoàn Crawfurd xem một buổi biểu diễn đấu nhau giữa voi và cọp. Crawfurd được tặng trâu, heo, gà vịt, heo quay.. đổi lại, Crawfurd bí mật tặng quan Tổng trấn thuốc súng.
Người Cochin China rất mê đá gà (chọi gà). Ông Tổng trấn, chơi đá gà hai lần một tháng và mời nhiều quan chức tham dự.
NĂM 1822 Tại Huế, ngày 12 tháng 10 KHÔNG CÓ CUỘC GẶP MẶT nhà vua nào được tổ chức cho đoàn của Crawfurd. Ông được cho phép quay lại Đà Nẵng bằng đường bộ để tham quan. Trước khi rời Huế, Crawfurd đến phủ của vị quan Tượng binh (kiêm Ngoại giao) để thương thảo lần cuối. Quan Tượng binh đã chất vấn Crawfurd một số điều về cuộc ghé thăm Sài Gòn như:
- Crawfurd tự nguyện dâng thư của Toàn quyền Anh cho Tổng trấn [Lê Văn Duyệt] hay là ông ta [Lê Văn Duyệt] ép?
Và rằng:
-Không ai được phép xem thư của nhà vua trước khi nó được trình lên ngài ấy cả.
Crawfurd nhận ra sự ghen ghét của triều đình đối với quan Tổng trấn thành Gia Định. Theo tìm hiểu của Crawfurd, Lê Văn Duyệt không chỉ là nhân vật đứng đầu cả nước về đẳng cấp và quyền lực, mà còn ở sự CỨNG RẮN, TÀI NĂNG VÀ LIÊM CHÍNH của ông ta.
Việc Lê Văn Duyệt phải rời kinh đô để đi trấn thủ Gia Định là một mất mát lớn, khiến những quan chức tham lam không còn bị ai kiềm chế.
Minh Mạng cố nhiên đố kị với uy danh của quan Tổng trấn.
NƯỚC MIẾN ĐIỆN
Việc giao thiệp với Miến Điện (hoặc Diến Điện, vương quốc Ava) là một trong những BẰNG CỚ ĐẦU TIÊN mà nhà Nguyễn dùng để kết tội chém và thắt cổ Lê Văn Duyệt.
Đại Nam Thực lục và Liệt truyện chép:
NĂM 1823 Quý mùi, năm Minh Mệnh thứ 4 mùa đông, quốc vương nước MIẾN ĐIỆN sai sứ đến thông hiếu.
Khi trước Tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt sai thuộc hạ là Nguyễn Văn Độ đi thuyền buôn sang các nước bên ngoài nước Hồng Mao tìm mua đồ binh dụng, bị gió bạt đến trấn Đào Quai nước MIẾN ĐIỆN. Vua Miến Điện sai bồi thần là Hợp Thời Thông Thụ Nhĩ Miêu Ty Chỉ-Tu-Giá Tha đem quốc thư và phẩm vật đến dâng, xin nước ta tuyệt giao với nước Xiêm. Sứ giả đến Gia Định, Duyệt cho dịch thư ấy ra tâu lên, việc giao cho đình thần bàn, khước lời xin ấy trả cả lễ cống.
Sai Quản cơ Nguyễn Văn Uẩn và Chánh tuần hải đô dinh Hoàng Trung Đồng đem binh thuyền và mang lương tiền 6 tháng, đưa sứ giả đến địa đầu Diến Điện thì về. Lại sai bộ Lễ đem việc ấy báo cho nước Xiêm. Người Xiêm gửi thư đến tạ.
Trong quyển sách của mình, John Crawfurd cũng ghi lại tường trình của sứ giả Miến Điện khi đến Việt Nam.
Sứ giả Miến Điện là Gibson, có cha là người Anh, đã tường thuật khá chi tiết về hành trình và các sự kiện ở Gia Định Thành lúc ấy.
ĐƯỜNG PHỐ
Từ thời Pháp thuộc, ở thị xã Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Yên cũ (ngày nay là thành phố Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) có một tuyến phố mang tên là phố Lê Văn Duyệt.
Sau khi tiếp quản Vĩnh Yên vào năm 1954, chính quyền mới đã cho đổi tên phố này thành tên mới là phố Tân Lập, nay gọi là phố Lê Xoay.
Từ năm 1929, tại Sài Gòn, chính quyền thuộc địa cũng cho đặt tên đường Lê Văn Duyệt cho một con đường nhỏ ở phía sau chợ Tân Định. Đến năm 1955 thì đổi tên thành đường Mã Lộ cho đến nay.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (lúc đó gọi là : Sài Gòn và Gia Định) có tới 2 đại lộ mang tên Lê Văn Duyệt.
-Đại lộ Lê Văn Duyệt của ĐÔ THÀNH SÀI GÒN cũ hiện nay là đường Cách mạng Tháng Tám
-Còn đại lộ Lê Văn Duyệt của TỈNH GIA ĐỊNH cũ (nay thuộc địa bàn quận Bình Thạnh) sau đó cũng bị đổi tên và nhập chung với đường Đinh Tiên Hoàng (đoạn từ cầu Bông đến Lăng Ông Bà Chiểu)
-Tuy nhiên đã được PHỤC HỒI tên đường Lê Văn Duyệt như cũ từ ngày 11 tháng 7 năm 2020 sau 45 năm bị thay đổi tên.
Điều đặc biệt là cả hai con đường mang tên Lê Văn Duyệt này đều bị đổi tên vào cùng ngày 14 tháng 8 năm 1975.
-Ngoài ra trước năm 1976, quận 3 còn có phường Lê Văn Duyệt, ngày nay là địa bàn các phường 10 và 11 của quận 3.
Tên đường Lê Văn Duyệt vốn có từ trước năm 1975 nhưng vẫn được giữ nguyên, không bị thay đổi thành tên khác cho đến ngày nay tại một số thành phố, thị xã, thị trấn ở miền Nam và miền Trung như Bạc Liêu, Mỹ Tho, Trà Ôn (thuộc Vĩnh Long), Lái Thiêu (thuộc Bình Dương), Đà Nẵng, Phước Long(thuộc Bình Phước).
Hiện nay, tại Bạc Liêu có một con đường mang tên ông tại phường 3, thành phố Bạc Liêu.
Tại thị xã La Gi, Phan Thiết, từ năm 2009 có đường Lê Văn Duyệt, từ đường Tôn Đức Thắng đến đường Kinh tế mới Tân An, dài 2200m x rộng 8m.
Hiện tại Đà Nẵng có con đường tên Lê Văn Duyệt dọc con sông Hàn.
NĂM 2020 Ngày 11 tháng 7 Hội đồng Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh đã nhất trí thông qua Nghị quyết về việc đổi tên một đoạn đường Đinh Tiên Hoàng thuộc địa bàn quận Bình Thạnh (từ Cầu Bông đến ngã ba giao với đường Phan Đăng Lưu, giáp với Lăng Ông Bà Chiểu) với chiều dài 947m thành đường Lê Văn Duyệt. Đây chính là đại lộ Lê Văn Duyệt đi ngang qua địa bàn tỉnh lỵ Gia Định cũ từ sau năm 1945 cho đến năm 1975. Đến ngày 16 tháng 9 năm 2020 (nhằm ngày 29 tháng 7 năm Canh Tý), sau 45 năm bị thay đổi tên, đoạn đường này được PHỤC HỒI TÊN CŨ là đường Lê Văn Duyệt nhân dịp giỗ lần thứ 188 của Tả Quân.
Vì sao Tả Quân Lê Văn Duyệt xuất thân thái giám nhưng khi mất lại nằm cùng bà Phu Nhân?
Từ lâu người Sài Gòn, Gia Định,Chợ Lớn xem Tả Quân Lê Văn Duyệt là một vị thần có hơi hám tâm linh dân gian...Đây là một hiện tượng độc nhứt vô nhị.
Các dịp Lễ Tết số lượng người đi Lăng Ông đông gấp nhiều lần đình chùa
Ngày thường khách vẫn nườm nượp nhang khói không lúc nào nguội lạnh.
Ngày Tết Nguyên Đán đầu năm trong tiết tháng Giêng se lạnh, khi mà Trời Đất giao hòa cùng lòng người
thì bá tánh thích ghé Lăng Tả Quân đặng cầu nguyện cho một năm an bình, tài lộc...
Sài Gòn còn có mộ và đền thờ của Võ Tánh,Trương Tấn Bửu, Võ Di Nguy nhưng đông nhứt vẫn là Lăng Ông Bà Chiểu.
Gần đó có đền thờ Trần Hưng Đạo nhưng dân Nam Kỳ ít khi lui tới .
Dân gian coi ông như thần và tế lễ ông tại lăng mang nghi thức thờ thần. Nghi lễ cúng kiếng tại lăng
pha trộn giữa nghi lễ thờ cúng ông bà, tổ tiên của người Nam Kỳ với nghi lễ cúng thần.
Người Việt cúng trái cây,bánh và nhang đèn. Người Hoa cúng heo quay theo tục của họ.
Vì ngày xưa TỔNG TRẤN làm cho Sài Gòn ,Nam Kỳ giàu mạnh nên nhiều người Việt lẫn Hoa coi ông là PHÚC THẦN
thành ra cúng tế ông là cầu xin ,đó là lẽ thường xuất phát từ tâm tưởng của người dân
Xin bắt đầu vài dòng về những ngày xưa
Năm 1760 ông Lê Văn Hiếu cùng vợ chồng con trai ông bà là ông bà Lê Văn Toại rời Quảng Ngãi theo ghe bầu vô Nam Kỳ và tới vùng Mỹ Tho, sau định cư tại Vàm Trà Lọt
Ông Lê Văn Toại và bà Nguyễn Thị Lập sanh ra con trai Lê Văn Duyệt ở đây
Ông Lê Văn Toại sanh được 4 con trai,ông Duyệt là con thứ hai,con trưởng
Tương truyền, từ năm 14, 15 tuổi ông Lê Văn Duyệt thường tự than: “Sanh ra ở đời loạn mà không dựng cờ nổi trống làm đại tướng, để công danh trên thẻ bạc, thì chẳng đáng làm mặt trai!”.
Năm 1765 gia đình này dời nhà qua bên Long Hưng sanh sống
Năm 1780 trong đêm mưa gió,Tây Sơn truy sát chúa Nguyễn Phước Ánh đã chạy từ Gia Định về Mỹ Tho tới vàm Ông Hổ và ghe chèo bị mắc cạn .Ông Lê Văn Toại chèo ghe ra cứu chúa Nguyễn và tùy tùng đem về nhà mình trú tạm
Sau thấy ông Duyệt lanh lẹ,cũng khỏe mạnh,chúa trả ơn gia đình họ Lê bằng cách nhận con trai họ là Lê Văn Duyệt cho đi theo cùng đặng làm thái giám nội cung
Sử Nguyễn chép Lê Văn Duyệt tuổi thơ không chịu học hành mà chỉ thích bắt chim, đánh cá,đá gà và tụ tập các trẻ trong làng, chia phe chơi trò tập trận
Đại Nam liệt truyện cho biết “ông mình thể ngắn nhỏ, tinh hãn, có tài lực”, và mắc bệnh “ẩn cung hình” từ lúc mới sanh.
Ẩn cung hình tức bộ phận sanh dục quá nhỏ như hình con tằm không thể sanh con được
Nhiều nhà sử học nói ông không có bộ phận sanh dục nam ,có người nói đó là tật "ẩn tinh hoàn"
Chữ " ái nam ái nữ" là chữ không chính xác với một nhân vật lịch sử
Trích "Nhật ký hành trình" của John White ,London 1824, tr. 236:
"Tổng Trấn Sài Gòn nghe người ta nói là một hoạn quan. Trông hình dáng của ông đã chứng minh khá rõ tiếng đồn này. Ông ấy khoảng 50 tuổi , có cái nhìn thông minh. Ông có vẻ hoạt động mạnh về thể chất & tinh thần
Gương mặt tròn , nhẳn , không râu. Riêng giọng nói rất chát tai , giống tiếng đàn bà. Còn y phục của ông ta giản dị giống như y phục của người nghèo .."
Theo mô tả thì ông không có râu, giọng hơi chát, tức là âm hơi bổng, nội tiết tố nam testosterone hơi bị ít
Từ thái giám ,ông được làm cai đội nội cung, rồi tham gia đánh trận
Dũng cảm và quyết đoán,ông đánh trăm trận trăm thắng .Nổi danh trận Thị Nại Quy Nhơn
Tả Quân Tổng Trấn Lê Văn Duyệt gan dạ,lập nhiều chiến công vào bậc nhứt khai quốc công thần thời Gia Long
Ông từng giữ chức Tổng Trấn Gia Định Thành 2 lần: từ 1812 đến 1815 (triều vua Gia Long) và từ 1820 đến 1832 (đời vua Minh Mạng)
Tả Quân lúc uy quyền, tuy chữ ít nhưng lòng người ai cũng kính phục, gọi ông là Ông Lớn Thượng, là Lê Thượng Công
Ông là người giỏi quân sự lẫn chánh trị, ngoại giao,là một vị quan nghiêm khắc, thanh liêm
Dù quyền hành lớn, ông không hề hiếp đáp kẻ dưới, hoặc tìm mọi cách để tư túi riêng.
lính của ông có kỷ luật, không hề phá phách, cướp bóc dân gian
Vì bất đồng cách trị quốc với vua Minh Mạng nên ông vua này để bụng với ông Duyệt nhưng do Lê Văn Duyệt có quyền uy lớn trong triều đình nên vua Minh Mạng không làm gì được
Nên hiểu ông Duyệt là thủ lãnh thế lực Nam Kỳ thời đó,phe Nam Kỳ góp phần cho nhà Nguyễn trung hưng
Nam Kỳ giàu có ,nạp thuế,góp lúa gạo nhiều nhứt cho Huế
Tả quân Lê Văn Duyệt được vua Gia Long tin tưởng giao như PHÓ VƯƠNG NAM KỲ TỰ TRỊ
Vua GIA LONG nhờ dân Nam Kỳ mà trung hưng nhà Nguyễn,sống mấy chục năm ở Nam Kỳ nên vua hiểu bụng dạ người Nam Kỳ,cái tánh hảo sảng nhưng cũng rất tự do ,Nam Kỳ tuy nhìn là dễ tánh nhưng thực sự rất khó,nguyên tắc rất chặt
Thời của ông Tả Quân cai quản thì đất Gia Định-Nam Kỳ tự do kinh tế thị trường,doanh nhân ngoại quốc Tây -Tàu bán buôn,truyền giáo TỰ DO
Thời Minh Mạng cương vực lãnh thổ Đại Nam bao trùm Lào và Cam Bốt ,công của phe Nam Kỳ rất lớn vì góp của cải,lương thực vào chuyện đó
Sanh thời vua Minh Mạng không sợ ai ,ông nắm quyền tột đỉnh ở Huế,nhưng lại cảm thấy phe Nam Kỳ có thể uy hiếp triều đình
Lịch sử tréo ngoe ở chổ khi thạnh quá thì sẽ suy.
Chánh trị mà,đó là quyền lợi của Nam Kỳ và Huế đã có sự mâu thuẩn nhau
Vua GIA LONG vì được người Tàu Minh Hương giúp trung hưng nhà Nguyễn nên ông có chánh sách “nhẹ tay” ,
Minh Hương được miễn lao dịch và miễn thuế thân.
NĂM 1824, Minh Mạng buộc tất cả người Tàu di cư phải đóng thuế thân kể cả người Minh Hương, Lê Văn Duyệt phản đối
-Lê Văn Duyệt cũng CHỐNG LỆNH cấm đạo Thiên Chúa
-Chống chủ trương trọng nông ức thương của Minh Mạng.
Minh Mạng chủ trương triệt luôn quyền tự trị của người Chàm ở trấn Thuận Thành ,ông Duyệt cũng chống
Khi ông Duyệt còn sống,biết lão thần có uy tín lớn nên vua làm ngơ
khi ông Duyệt vừa qua đời thì vua Minh Mạng ra tay
Chờ sau khi Tả Quân Lê Văn Duyệt mất vào năm 1832 việc đầu tiên của vua Minh Mạng là phá hết thế lực,phe cánh của Tả Quân ở Gia Định và đặt quan cai trị trực tiếp
Vua Minh Mạng triệt phiên bớt thế lực của Tả Quân,bỏ quy chế tự trị của Gia Định trấn,lập tỉnh TRỰC THUỘC HUẾ
Áp dụng chánh sách thắt chặt kinh tế ở Nam Kỳ nên đã bị Nam Kỳ phản ứng chống đối
Những cái này ông Duyệt còn sống lại cho tự do
Quan từ Huế vô,việc đầu tiên là :
Khám tư dinh và truy xét tài sản của Lê Văn Duyệt
Sau đó có những cử chỉ bất kính với người vừa mất
-Tổng đốc Nguyễn Văn Quế
-Bố chánh Bạch Xuân Nguyên
-Và Án sát Nguyễn Chương Đạt sai dựng lên một vụ án xử Lê Văn Duyệt
Người Minh Hương,người Công giáo,điền chủ,quan lại Nam Kỳ bất bình
NĂM 1833 Đêm 18 tháng 5 năm Quý Tỵ con nuôi Tả Quân là Lê Văn Khôi cùng 27 lính hồi lương ĐỘT NHẬP DINH Bố Chánh giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên.
Quan Tổng đốc Nguyễn Văn Quế cũng bị giết
Tới ngày 7 tháng 6 năm 1833, quân binh biến chiếm cả Nam Kỳ lục tỉnh một cách dễ dàng,Huế rúng động
Dân Nam Kỳ ủng hộ vang trời
Phe Lê Văn Khôi bao gồm:
-Dân điền chủ Nam Kỳ
-Cố đạo, giáo dân Công giáo
-Người Tàu bốn bang –kể cả con cháu Mạc Cửu ở Hà Tiên
-con cháu Thoại Ngọc Hầu
-Người Miên (Con trai ông Nguyễn Văn Tồn ở Trà Ôn)
-Tiểu vương Chàm ở trấn Thuận Thành (Bình Thuận)
-Một số người dân tộc ở Tây Nguyên cũng có dính líu
Chúng ta nên nhìn kỹ,cuộc nổi loạn Lê Văn Khôi bắt nguồn
- Từ chính sách triệt phiên
-Từ việc cấm đạo
-Và bế quan tỏa cảng của vua Minh Mạng.
ở Nam Kỳ ,nó là mâu thuẩn chánh trị giữa Nam Kỳ mà Tả Quân là thủ lãnh và triều đình Huế mà vua Minh Mạng là đại diện
Cuộc binh biến thách thức vua Minh Mạng trong hơn 2 năm từ 1833 tới 1835
Và trong thế bị ép,Lê Văn Khôi làm binh biến,vua Minh Mạng sau đó dẹp được nhưng Huế cũng một phen xấc bấc xang bang và người ta đồn trong thời gian đó vua Minh Mạng sợ Lê Văn Khôi hành quân thốc ra đánh úp Huế nên đem vàng bạc chôn rất nhiều nơi ở Huế
Lê Văn Khôi không đánh rốc ra Huế là một sai lầm,để triều đình có thì giờ đem quân vào Nam ,trước tiên là khủng bố giới điền chủ nuôi Lê Văn Khôi
Vụ binh biến thành Phiên An của Lê Văn Khôi rốt cuộc bị triều đình dẹp yên
Cả thảy 1.831 người trong thành đều bị chém đầu và vùi xác chung trong một hố ở Đồng Tập Trận mà vua Minh Mạng gọi là Mả Ngụy-Mả Biền Tru
"Chiều giông Mả ngụy cũng giông.
Hồn lên lớp lớp bềnh bồng như mây
Sống thời gươm bén cầm tay
Chết thời một sợi lông mày cũng buông
Thương thay Mả ngụy mưa tuôn..."
Trong đó có 800 người Tàu Nam Kỳ.Sử chép có một người trong “Bốn Bang Hội " trước khi chết để lại bài thơ lục bát dài 308 câu kể lại sự kiện gọi là “Bốn Bang thư”,bài thơ này là của ông Lưu Hằng Tín
Xin nhớ, Bốn Bang không phải tên người nào riêng lẻ,là bốn bang hội của người Tàu gồm Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và Hải Nam.Tức là hiểu rằng có 4 bang hội Tàu hổ trợ tài chánh và nhơn lực cho Lê Văn Khôi
Triều đình áp giải về Huế xét xử và tử hình lăng trì,bêu đầu 8 người,cầm đầu -trong đó có
-Lê Văn Cù -con trai 7 tuổi của Lê Văn Khôi (Khôi đã chết trước đó)
-một giáo sĩ Pháp tên Marchand (Cố Du)
-hai người Tàu tên Mạch Tấn Giai (người Tiều) và con trai nhỏ của ông này
-Lưu Hằng Tín (người Quảng).Sau khi bêu đầu thì xác được đưa trả về Nam chôn
Sai lầm của Lê Văn Khôi khi đi cầu viện quân Xiêm vì thế tính chánh danh đã không còn được sự ủng hộ của bá tánh Nam Kỳ
Sau khi chiếm thành Phiên An, chém 1.831 người chôn ở MẢ NGỤY –MẢ BIỀN TRU. Vua Minh Mạng cho phá thành xây laị thành nhỏ
Vua Minh Mạng đã SAN BẰNG MẢ của ông Duyệt và lôi nguồn gốc thái giám của ông Duyệt ra miệt thị.
Ngay tại mả Tả Quân vua Minh Mạng cho đóng tấm bia đề chữ :
"Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ“ (Đây chỗ tên hoạn quan lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu phép nước”
Đến lúc Tả quân Lê Văn Duyệt mất đi, vua Minh Mạng mới tuyên án tội của Lê Văn Duyệt trên ngôi mộ của ông
Vì Ông bị oan khuất, hạ nhục mà dân lại còn thương Ông nhiều hơn, từ tình cảm tới tâm linh, thành linh thần Gia Định
Lăng Ông linh thiêng trong lòng dân Nam Kỳ
Người Tàu Chợ Lớn kêu là Lăng của phò mã gia gia,nghĩa là lăng cha ông phò mã (Cha thừa kế của phò mã Lê Văn Yên-ông này là cháu ông Duyệt,con ông em Lê Văn Phong )
Tương truyền tướng tinh của Tả Quân là con cọp ,khi còn sống lúc ngủ thì ban đêm có người thấy có bóng dáng con cọp hiện ra chợp chờn ở bên cạnh
Vì Tả Quân có danh vọng với Nam Kỳ, cho :
-tự do thông thương,kinh tế thị trường
-tự do truyền đạo
Ông có tầm nhìn của một người Nam Kỳ mở, lòng dạ thoáng, tầm nhìn rộng đã bị hạ nhục ngay CÁI MẢ (chổ chôn nấm xương tàn của mình)
Suốt mấy chục năm khu MẢ của ông hoang vắng không ai dám đi qua, truyền rằng đêm xuống nghe quân reo ngựa hí, có ma khóc lóc ở đó
Dân Gia Định cả Việt lẫn Tàu đều đau thương
Tả Quân Lê Văn Duyệt càng bị hạ nhục,bị xử khi đã chết thì cái tiếng linh của ông càng lan rộng trong dân gian
Dân kể giai thoại rằng những năm 1950 vua Thành Thái dịp Tết nọ lơn tơn đi chơi Lăng Ông,có ai đưa cho cựu hoàng cây nhang ,ông nói rằng:
-”Nó (Ông Duyệt) phải lạy tao chứ tao không lạy nó”
Có chuyện truyền rằng vua Thành Thái vào Nam Kỳ đi ngang Lăng Ông thì xe hơi bị chết máy, Thành Thái phải sai bỏ cái xiềng trên mộ ông mới nổ máy được (Nhưng thực tế cái xiềng ấy đã được bỏ đi từ đầu đời Thiệu Trị )
Lăng Ông lLINH THIÊNG trong lòng dân Nam Kỳ,người Tàu Chợ Lớn kêu là Lăng của phò mã gia gia,nghĩa là lăng cha ông phò mã
Kế bên mả vợ chồng Tả Quân người dân xưa dựng lên 上公廟 “Thượng Công miếu” từ 1841 , không ngày nào là không có người đến cúng kiếng bánh trái,nhang đèn
Đó là lòng dân : dân thương nên dân cúng
Còn vì sao xuất thân là hoạn quan mà Tả Quân lại có Phu Nhân và lăng ngày nay có hai ngôi mộ song táng kế bên?
Tả Quân phu nhân tên là Đỗ Thị Phận
Đọc "Sài Gòn năm xưa" ông Vương Hồng Sển chép rằng :
"Nghe nói lại, lối năm 1885, thì chợ cũ ở vào xóm nhà dưỡng đường Chợ Rẫy, nay chỉ còn trơ lại một danh trơn và đây có lẽ là một chợ hồi đời trước, đến trào Pháp lại dẹp đi. Trước dưỡng đường Chợ Rẫy, xưa kia có một ngôi mộ cổ bằng vôi, kiểu chạm trổ rất khéo, tương truyền là của một ông hầu tứớc họ Đỗ (Tombeau du marquis de Đỗ)
Trường Viễn Đông Bác cổ đã xin liệt kê làm cổ tích,nhưng chủ đất là người có thế lực, một hai xin phá để cất phố xá và viên Toàn quyền Decoux ưng lời, thiệt là rất tiếc cho một cổ tích không có người ủng hộ
Mộ phần họ Đỗ này có dính líu với Tả quân phu nhơn, tên tộc là Đỗ Thị Phẫn. Tương truyền khi Lê Tả quân bị tội, phu nhơn về ngụ nơi xóm Chợ Rẫy, trong một ngôi chùa Phật, do bà mẹ năm xưa đứng tạo lập tục danh là Chùa Bà Dội."
Tức là khúc Chợ Rẫy là đất của bên ngoại nhà bà Đỗ Thị Phẫn,chùa Bà Đội là chùa của má bà lập ra
Chúng ta chỉ có một chi tiết mơ hồ về Tả Quân phu nhân Đỗ Thị Phận
Vào năm 1900, bệnh viện Chợ Rẫy được xây dựng và lúc đó còn mả họ Đỗ,còn chùa Bà Đội là chùa nào tới nay chưa xác định được
Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt vốn là thái giám,sanh ra có tật "ẩn cung" nhưng trưởng thành trong chiến trận
Sử thần triều Nguyễn viết “Chư tướng thời trung hưng chỉ có Duyệt cùng Nguyễn Văn Trương đánh giặc không thua trận nào”.
Ông Tả Quân tánh rất nóng và có học vấn hạn chế
Sau 1802 ông Lê Văn Duyệt là Đệ Nhứt Khai Quốc Công Thần của nhà Nguyễn ,vua phong ông là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân,tước Quận Công
Sau đó vua Gia Long ban vợ cho Tả Quân Lê Văn Duyệt
Sử không ghi dòng nào về bà vợ họ Đỗ này
Trong truyện ngắn "Đức Tả Quân" của Phạm Hữu Hoàng có ghi là " Bấy giờ trong triều có nàng Đỗ Thị Phận, là ái nữ quan Thượng bảo khanh Đỗ Phiên. Đỗ Thị Phận dung nhan xinh đẹp, giỏi về y thuật, tính tình nghiêm nghị"
Thượng bảo khanh thời Gia Long là quan trật Tòng tam phẩm.Tuy nhiên chưa tra ra ông Thượng bảo khanh Đỗ Phiên là ai
Nhưng bà Đỗ Thị Phận này có lẽ cũng là con quan và vào cung làm cung nữ .Thời xưa bà Từ Cung Hoàng thái hậu Hoàng Thị Cúc mới vô cung cũng làm cung nữ hầu hạ đó thôi
Nhà vua ban hôn cho Tả Quân với bà Đỗ Thị Phận ,tức bà Đỗ này làm phu nhân Tả Quân ,cả hai người phải chấp nhận
Vua Gia Long đổi tên bà Đỗ từ Phận ra Phẫn
Chữ 墳 phẫn có nghĩa cao lớn,đất nhô lên. Đỗ Thị Phận thành Đỗ Thị Phẫn,tên được vua ban cho luôn ,quá vinh dự
Trong "Đức Tả Quân"Phạm Hữu Hoàn tả tâm trạng đêm hợp cẩn vợ chồng nghe rất có lý ,chồng là thái giám,vợ cung nữ và họ rất tôn trọng nhau về lý trí
(Trích)
"Đỗ Thị Phẫn mặc áo tân nương, khăn đỏ rũ che mặt ngồi trên ghế đợi. Tả quân bước vào, tới ngồi ghế đối diện.
Tả quân lên tiếng, rành rọt:
– Nàng là nương tử vua ban. Nhưng ta không thể cùng nàng chăn gối. Mong nàng hiểu cho. Đây là phòng riêng của nàng, cần gì cứ nói với ta
Lời vừa rồi của Tả quân làm Đỗ Thị Phẫn giảm bớt căng thẳng. Không ngờ Tả quân thẳng thắn, dứt khoát như vậy. Mọi thứ bỗng trở nên rõ ràng hơn. Nàng bớt lo âu như lúc bước vào dinh thự của Tả quân trong tiếng pháo nổ đón dâu. Lê Văn Duyệt gọi hai tỳ nữ vào căn dặn chăm lo cho nàng, rồi đi ra ngoài.
.........
Trong cuộc sống hằng ngày, Lê Văn Duyệt không để Đỗ Thị Phẫn thiếu thốn điều gì. Những lễ hội cung đình, Tả quân đều đưa phu nhân đi dự. Việc hiếu nghĩa cả hai phía, Tả quân đều lo chu toàn. Mỗi khi có việc quân phải đi xa lâu ngày, Tả quân tin cậy căn dặn vợ quán xuyến việc nhà
Đỗ Thị Phẫn quen dần với cuộc sống mới
Càng gần gũi, nàng thấy Tả quân không như những gì mường tượng ban đầu
Người chồng chưa bao giờ đồng tịch đồng sàng luôn cảm thông và hết sức tôn trọng nàng. Qua nhiều lần hàn huyên tâm sự, ít nhiều đã có sự gắn bó."
Thuyền theo lái,gái theo chồng
Tả Quân phu nhân gắn bó với chồng mấy chục năm, bà là người hiền thục đoan chánh, lo từng chút cho chồng từ miếng ăn tới giấc ngủ, ông là người liêm khiết và sĩ diện
Năm 1832 Cọp Gấm Đồng Nai Lê Văn Duyệt lìa đời khi đương chức Tổng Trấn Gia Định Thành tại tư dinh của ông ở khu dinh Độc Lập ngày nay
Trần Bảo Định trong "Kệ kinh trong lòng người" viết lại giây phút vợ lìa chồng như sau:
" Ánh bạch lạp không đủ sáng để soi thủng bóng tối đêm cuối, phu nhân Đỗ Thị Phẫn quỳ bên giường bịnh lắng nghe lời trăn trối của chồng:
- Nếu, một mai ta đi về cõi khác, phu nhân quay lại xóm Rẫy xưa, nơi mẹ trước kia đã tạo lập ngôi chùa Phật, tục danh chùa Bà ĐỘI mà nương náu...
Gió rít tường thành dữ dội, tiếng mưa át cả lời người sắp ra đi và những hạt mưa đêm không thấm thấu nổi những giọt nước mắt của phu nhân Tổng trấn Gia Định thành
- Nàng đừng tiếc thương ta, bởi ta chỉ là kẻ yêm hoạn tầm thường... ta không thể... thiệt là, vô cùng có lỗi với phu nhân
Minh Mạng đầu nuôi chí cả, óc thông minh, trái tim còn nóng hổi, chưa lạnh lùng...tuy bụng dạ có hẹp hòi đố kỵ...
Ta tin rằng, Minh Mạng sẽ trả thù ta, nhưng với phu nhân chắc là không. Bởi, Minh Mạng thừa biết ta với nàng chỉ là phu thê trên danh nghĩa... "
Tả Quân mất ngày 30 tháng 7 năm Mậu Thìn (nhằm ngày 15 tháng 8 năm 1832) hưởng thọ 69 tuổi
Tả quân còn có hai cô hầu rất thương, bằng chứng ngày nay mé ngoài vòng thành Lăng Ông còn có MÃ HAI CÔ HẦU rất lớn.
Đêm 8/5/1833 Lê Văn Khôi làm binh biến chiếm thành Gia Định ly khai triều đình Huế trong 2 năm trời làm Huế một phen thất kinh
Đại Nam Thực lục chép trước khi phát động binh biến, Lê Văn Khôi có tới bẩm với bà Đỗ Thị, bà đã khóc ròng nói:
“Các ngươi làm thế thì chắc chắn Thượng công sẽ bị đào mả thôi".
Ngày 16 tháng 7 năm 1835, quân triều đình Huế chia làm 8 mũi, tấn công ồ ạt vào thành Gia Định,vụ binh biến bị dẹp.
Vua Minh Mạng làm án xử Lê Văn Duyệt nhưng CHỪA Đỗ phu nhân ra vì biết bà là vợ danh phận và không có con nối dõi.
Đỗ phu nhân về Chợ Rẫy sống ẩn dật, nhịn nhục ở chùa Bà Dội tới chết.
Khi bà mất người nhà vạch rào ban đêm đem quan tài bà chôn kế bên Tả Quân ở trong Lăng Ông Bà Chiểu. Lúc này mả bị đục bia,san núm, xiềng xích và nhiều lời đồn về ban đêm ma quỷ gào thét vang trời .Người vợ đồng cam cùng chịu hình phạt với chồng.
Ngày nay đi lăng Ông thấy mả Tả Quân và Phu Nhân họ Đỗ nằm song song nhau ,ta biết hai ông bà chung thủy và sắt son với nhau
"Đạo nào bằng đạo phu thê
Tay ấp, má kề, sanh tử có nhau"
Tình nghĩa vợ chồng từ trong cách sống và sự tôn trọng nhau.
Người xưa có lòng sáng tợ mặt trời
Kết luận:
Chưa có ông tướng nào có được vị trí tâm linh như Tả Quân Lê Văn Duyệt .
Chưa vua nào phong Thần cho ông, nhưng dân coi ông là Thần , coi ông như Phước Thần của Sài Gòn, kêu nơi gửi nắm xương tàn của ông là “Lăng Ông” ( Đức Tả Quân là người duy nhứt mà nơi yên nghỉ được dân thành kính tôn xưng là “Lăng” ngang hàng với các Vua nhà Nguyễn ).
SỐNG LÀM. :tướng bách chiến bách thắng,sống làm quan thanh liêm lo cho dân
CHẾT LÀM : Thần của dân
Có gì hạnh phúc hơn !?
Mang lễ vật cúng không phải là mê tín dị đoan, tục này có từ đời xưa với lòng tin "có kiêng có lành". Người Việt thờ tổ tiên, thường vẫn làm mâm cơm cúng giỗ ông bà, thì mang lễ vật cúng Tả Quân cũng như cúng ông bà vậy thôi .
Cúng Lăng Ông hay có xây chầu hát bộ. Đó là nét văn hóa đặc trưng Nam Kỳ xưa cần giữ gìn .
Cầu khấn Tả Quân cũng không phải mê tín dị đoan,cũng chẳng phải trả giá, trả treo gì với tiền nhân ,thực chất nó là niềm tin,là tình thương,là sự gửi gắm lòng thành ,niềm tin của dân Nam Kỳ vào Tả Quân .Cái sự "linh thiêng" và "linh ứng" là một đặc trưng ở đây mà các nơi khác không có được.
Đốt giấy tiền vàng bạc ở Lăng Tả Quân thường là người Tàu ,đó là tục của họ, họ cúng chùa Tàu cũng vậy mà thôi.
Lăng Ông Bà Chiểu đã trở thành trung tâm tín ngưỡng thờ Thần điển hình của người Nam Kỳ vùng Sài Gòn Gia Định, đồng thời cũng là biểu tượng giáo dục tinh thần chánh trị cho thế hệ trẻ Nam Kỳ
Thông điệp là: Sống có chánh kiến, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tay gươm tay viết, biết ý thức đem lợi ích về cho Nam Kỳ, biết phản kháng và chết vẫn hiển linh bảo vệ xứ sở mình.
-
Nguyễn Gia Việt- (Quí Nguyễn đăng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét