Tháng 4 của những người quân tử!
Biên khảo – Hoài Nguyễn
----------------------------
Bốn năm nội chiến cũng đến ngày kết thúc
Hai tướng Bắc – Nam, rưng rưng ngày tao ngộ
Không phát súng mừng của cái “ngày chiến thắng”
Vì họ biết nhau, cũng là những đồng bào…
Lee và Grant, không xem ai là thua – thắng!
Gặp nhau, hàn huyên chuyện quân ngũ ngày xưa
Họ thỏa hiệp với cách của người quân tử
Kẻ “thắng – thua”, đều là những anh hùng…
*
Nhân ngày 30/4, ngày kết thúc cuộc Chiến tranh Việt Nam cách nay 45 năm, tôi biên tập và tổng hợp lại một bài viết cũ về cuộc Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865) để những bạn thích nghiên cứu lịch sử có điều kiện tham khảo và suy ngẫm, so sánh giữa hai cuộc chiến ở hai đất nước cách nhau nửa vòng Trái Đất.
Bản chất của mỗi cuộc chiến, thời gian mức độ khốc liệt có khác nhau, nhưng cách xử sự sau cuộc chiến của kẻ thắng người bại khiến chúng ta phải suy ngẫm để hiểu vì sao cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc đã lâu về bình diện quân sự nhưng tại sao từ đấy đến nay vẫn chưa thể nào hòa hợp hòa giải giữa những người đã từng hai bên chiến tuyến.
Đến ngày 30/4 hằng năm ở Việt Nam, chính quyền khắp nơi tổ chức rầm rộ ngày “Chiến thắng” thì ngược lại trong lòng những người Việt thuộc lớp người lớn tuổi thời VNCH còn ở lại trong nước vẫn nặng về sự hoài niệm tiếc nuối, các người Việt hải ngoại cũng rầm rộ tổ chức “Ngày Quốc hận”!
Và cũng chính vì những xử sự của những người thuộc phe “thắng cuộc” không được quân tử nên từ sau ngày 30/4/1975 đã có biết bao nhiêu người Việt đã bỏ nước ra đi bất chấp cả hiểm nguy và cả sinh mệnh của mình! Đó là một thực tế mà chúng ta càng phải suy ngẫm để tìm một giải pháp cho hiện tại và tương lai để tìm một hướng đi, xây dựng lại một Việt Nam thoát khỏi sự tự ti về “nhược tiểu” trong hơn thế kỷ nay …
**
Tháng 4 của Hoa Kỳ là một tháng đáng lưu ý của lịch sử nước này. Cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ bắt đầu vào ngày 12/4/1861. Bốn năm sau vào ngày 9/4/1865, tướng Robert Edward Lee của miền Nam đầu hàng tướng Ulysses Simpson Grant của miền Bắc...
Cuộc chiến tranh với hàng trăm trận đánh tại miền Ðông Hoa Kỳ trong trọn vẹn 4 năm đã làm cho quân hai bên chết hơn 700 ngàn và hàng triệu người bị thương tích. Miền Bắc thắng trận, thống nhất đất nước, giải phóng nô lệ và hy sinh thêm vị anh hùng Mỹ quốc. Ðó là Tổng thống Abraham Lincoln.
Trong trận đánh cuối cùng, quân miền Bắc chiếm được Richmond là thủ đô của miền Nam vào ngày 2/4/1865. Hai ngày sau Tổng Thống Lincoln của miền Bắc đến thị sát Richmond, bước vào dinh tổng thống miền Nam đã bỏ chạy. Tiếp theo là Tướng Lee đầu hàng ngày 9/4 và vào ngày 15/4/1865, Tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát chết.
Vị tổng thống thứ 16 trở thành vĩ nhân thống nhất đất nước và giải phóng nô lệ nhưng chỉ vui với chiến thắng chưa được một tuần lễ.
Nội chiến xảy ra trong hai nhiệm kỳ của ông Lincoln từ 1861 đến 1865 với hai vị tướng chỉ huy sau cùng là Tướng Ulysses S. Grant của miền Bắc và Tướng Robert E. Lee của miền Nam. Tuy miền Nam với các tiểu bang ly khai bầu ra một Tổng Thống Jefferson Davis nhưng nhân vật anh hùng miền Nam chính là Tướng Lee.
Khi cuộc chiến Nam Bắc bùng nổ, nước Mỹ chia đôi. 11 tiểu bang miền Nam ly khai với 9 triệu dân và thêm 4 triệu dân nô lệ da đen. Chính phủ liên bang Hoa Kỳ còn lại 21 tiểu bang miền Bắc với 20 triệu dân.
Ông Robert Edward Lee nguyên là tướng lãnh của quân đội Liên bang Hoa Kỳ nhưng gốc người miền Nam. Ông đã từng là chỉ huy trưởng trường West Point.
Tháng 4/1861 khởi chiến Nam Bắc, Tướng Lee được đề nghị chỉ huy quân đội miền Bắc nhưng ông không nhận và xin từ nhiệm để về đầu quân miền Nam tại Richmond, tiểu bang Virginia. Ông nói là không thể quay lưng với nơi ông đã sinh ra và trưởng thành.
Trong chiến tranh, ông lập được nhiều chiến công và là vị tư lệnh sau cùng của miền Nam nhưng sau khi thủ đô Richmond của miền Nam bị thất thủ, ông đã quyết định đầu hàng.
Bài học của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ này không phải là những chiến thuật, mưu lược của nhà cầm quân, là chiến thắng của phe nào lâm chiến mà tôi muốn đề cập đến từ câu chuyện … đầu hàng.
Sở dĩ gọi là Nội chiến Hoa Kỳ là vì cuộc chiến diễn ra giữa hai phe: phe miền Bắc (còn gọi là phe Liên bang) đứng đầu là Tổng thống Lincoln chủ trương xóa bỏ buôn bán nô lệ người da đen và phe miền Nam chống lại chủ trương này.
Nội chiến Hoa Kỳ thường được nhắc tới qua những trận đánh đẫm máu giữa quân đội của hai phe: quân miền Bắc do tướng Ulysses Simpson Grant chỉ huy và quân miền Nam do tướng Robert Edward Lee cầm đầu. Tuy tướng Lee đã nhiều lần tấn công và gây tổn thất khá nặng cho đội quân của tướng Grant nhưng quân miền Bắc được sự hỗ trợ to lớn từ ngân sách liên bang và chiêu mộ được thêm nhiều quân số từ những người nô lệ da đen vừa được giải phóng nên cuối cùng quân miền Nam của tướng Lee phải chấp nhận thua trận.
Đã có những lời khuyên tướng Lee nên chia nhỏ quân của mình ra và tiến hành đánh du kích nhưng tướng Lee đã nói: nếu cứ tiếp tục chiến tranh gây bao chết chóc thì tội của tôi đáng chết gấp ngàn lần. Ông đã nhắn cho tướng Grant là ông chuẩn bị đầu hàng. Tướng Grant nhắn lại, đề nghị tướng Lee chọn địa điểm bàn thảo việc qui hàng. Và căn nhà của một người buôn bán tên là Wilmer Mc. Lean tại làng Appomattox đã được chọn. Ngày nay ngôi nhà này trở thành di tích lịch sử quốc gia, và được gọi là Appomattox Court House.
Đến ngày hẹn, tướng Lee bận một bộ lễ phục mới tinh và đeo kiếm, còn tướng Grant xuất hiện muộn hơn trong bộ đồ tác chiến thường ngày còn dính bùn đất hành quân. Hai người ngồi trong phòng khách của ông Mc. Lean và hàn huyên thân mật về những kỷ niệm quân ngũ trong cuộc chiến tranh Mexico. Câu chuyện lâu đến nỗi tướng Lee sốt ruột, chủ động đề cập đến “mục đích buổi gặp gỡ của chúng ta ngày hôm nay là bàn về việc đầu hàng”. Tướng Grant bèn lấy cây bút chì và tờ giấy viết vội những điều khoản và trao cho tướng Lee, trong đó có những nội dung nói về binh lính miền Nam:
1. Không bị coi là phản quốc và không phải ở tù.
2. Chính phủ coi binh lính miền Nam là những công dân bình thường nếu họ chấp hành tốt luật lệ.
3. Được mang ngựa và lừa về nhà để giúp gia đình cày cấy vào mùa xuân.
Sau khi xem qua những điều tướng Grant vừa viết, tướng Lee nói: “Những điều này sẽ có tác động tốt đến quân sĩ của tôi. Chúng sẽ góp phần quan trọng trong việc hòa giải dân tộc chúng ta.” Tướng Lee cho biết ông sẽ trao trả những tù binh miền Bắc vì ông không có đủ lương thực cho họ. Tướng Grant đáp lại rằng ông sẽ gửi ngay cho binh lính miền Nam 25.000 phần lương thực khô. Ông cũng ra lệnh cho in 28.231 giấy phóng thích cho binh lính miền Nam.
Khi tin phe miền Nam đầu hàng bay đến doanh trại, quân miền Bắc định bắn đại pháo chào mừng. Tướng Grant ra lệnh ngưng ngay lập tức các hoạt động ăn mừng. Ông nói với các sĩ quan dưới quyền: “Chiến tranh đã kết thúc. Giờ đây họ đã là đồng bào của chúng ta” .
Sau này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những người quân tử (The Gentlemen’s Agreement).
Ngày 12/4/1865, quân đội của tướng Lee tiến vào ngôi làng Appomattox để giao nộp vũ khí. Tướng Joshua L.Chamberlain của miền Bắc được chỉ định tiếp nhận binh sĩ qui hàng. Trước hàng quân miền Bắc nghiêm chỉnh, ông nhìn những binh sĩ miền Nam bại trận đi vào làng với cảm xúc dâng trào. Sau này ông viết lại: “Giây phút đó làm tôi thực sự xúc động. Tôi quyết định đánh dấu sự kiện này bằng một hành động, không gì khác hơn là giơ tay chào kiểu nhà binh. Tôi biết có người sẽ chỉ trích tôi về cử chỉ này. Tôi đã không xin phép và cũng không yêu cầu sự tha thứ về hành động này. Đối diện với chúng tôi là những chiến binh, bại trận nhưng can trường, là biểu tượng cho tinh thần trượng phu, không rã rời, không đau khổ, bất chấp hy sinh và không có gì khuất phục được họ. Giờ đây, họ là những người ốm yếu và đói khát, nhưng họ hiên ngang nhìn thẳng vào chúng tôi, làm sống dậy những ràng buộc thiêng liêng cao cả hơn bao giờ hết. Không có lý do gì để những đấng nam nhi ấy không được hội nhập vào Hợp Chủng Quốc vững vàng của chúng ta.”
Sau đó tất cả hàng ngũ quân miền Bắc thắng trận từ đơn vị này đến đơn vị khác đều nghiêm chỉnh giơ tay chào kiểu nhà binh. Vị tướng dẫn đầu đoàn quân miền Nam đầu cúi xuống trong buồn bã, chợt nhận ra và ngồi thẳng lại trên lưng ngựa, giơ tay chào đáp lễ. Ông ra lệnh cho các đơn vị theo sau tuân theo nghi lễ quân sự khi đi ngang qua đoàn quân miền Bắc. Không có kèn thắng trận, không có tiếng trống, tiếng hô, tiếng reo hò mừng chiến thắng, không một lời nói hay tiếng xì xầm… Một sự im lặng đến nghẹt thở.
Từ sáng sớm đến chiều tối, những người lính miền Nam đều giơ tay chào khi đi ngang qua hàng quân miền Bắc cũng đang giơ tay chào. Họ giao nộp vũ khí, những lá cờ trận rách tơi tả của miền Nam và trở về quê. Gần 100.000 quân miền Nam đã qui hàng ở làng Apppmattox. Vài ngày sau tất cả rời khỏi nơi này, ngôi làng trở lại cuộc sống bình thường.
Hàng năm, có khoảng 110.000 du khách đến thăm ngôi làng này. Các du khách đến đây để tìm nguồn cảm hứng, và câu chuyện các du khách muốn nghe không phải là trận đánh cuối cùng mà là sự hòa hợp của quốc gia và những điều khoản rộng rãi do tướng Grant đưa ra.
Ông Ron Wilson, sử gia của Appomattox Court House nói: “Tướng Grant và tướng Lee có một tầm nhìn rất xa. Hai ông nhận thức rằng những nỗ lực hai bên cùng dồn vào cho cuộc chiến đã gây ra sự phân hóa khắc nghiệt trong bao năm qua, giờ đây cần phải được dùng để tái thiết quốc gia. Không cần phải có hận thù.”
Tướng Lee và tướng Grant đã đi vào lịch sử Hoa Kỳ như những huyền thoại. Nhưng đằng sau câu chuyện ở làng Appomattox là bàn tay đạo diễn của Tổng thống Abraham Lincoln, lẽ đương nhiên cũng là một nhân vật huyền thoại . Ông thường nói rằng ông mong muốn cuộc chiến kết thúc trong sự khoan dung. Ông Ron Wilson nói rằng Tổng thống Lincoln và tướng Grant đã gặp nhau hai tuần trước đó trên chiến hạm River Queen ở sông James. Họ đã thảo luận rất lâu về hình thức kết thúc chiến tranh và những xáo trộn có thể xảy ra trong thời kỳ hậu chiến. Tổng thống Lincoln đã nói với tướng Grant: “Hãy để họ buông súng một cách thoải mái”.
Sau chiến tranh, ngày 15/4/1865, Tổng thống Lincoln bị ám sát, tướng Lee trở thành Viện trưởng của Đại học Washington, tướng Grant được bầu làm Tổng thống Mỹ hai nhiệm kỳ 1869-1877.
Tại nước Mỹ có một nghĩa trang quốc gia nổi tiếng khắp thế giới. Ðó là nghĩa trang Arlington. Ðây là nghĩa trang chính thức của liên bang Hoa Kỳ, của người miền Bắc trong trận chiến Bắc Nam.
Sau cuộc nội chiến, các tiểu bang miền Nam có hàng ngàn nghĩa trang lớn nhỏ chôn cất tử sĩ của phe bại trận và trên đó luôn luôn có lá cờ gạch chéo đã một thời tung hoành trên chiến trường.
Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn không có tù binh, ai về nhà đó, cùng xây dựng lại quê hương.
Nghĩa trang bên nào bên đó tự lo lấy, xấu đẹp tùy sức. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ngay tại nghĩa trang quốc gia của phe miền Bắc ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn có một khu chôn cất tử sĩ miền Nam với tượng đài gọi là Confederate Memorial.
Cũng phải nói rằng, thực sự sau nội chiến, dư vị cay đắng giữa Nam Bắc Hoa Kỳ vẫn còn nhiều. Dễ gì mà trút bỏ hận thù ngay sau khi hai bên chết cả gần một triệu người mà một số lớn đã giết nhau khi giáp mặt bằng gươm dao. Hai phe cùng đốt nhà của nhau và cùng tàn phá đô thị và nông trại, đôi khi có cả những hành động dã man như hãm hiếp phụ nữ và tàn sát trẻ em. Cuộc chiến nào mà không có những lần quá độ.
Năm 1900 tức là gần 40 năm sau cuộc chiến, mở đầu cho giai đoạn hòa giải dân tộc và năm 1991 thì các liệt sĩ miền Nam được cải táng đưa vào một khu đặc biệt trong nghĩa trang Arlington gọi là Confederate Section. Tổng cộng gần 500 mộ phần quây tròn chung quanh một tượng đài do nhà tạc tượng danh tiếng là điêu khắc gia Moses Ezekiel thực hiện.
Trên đỉnh của chân bệ hình vòng cung như nóc Tòa Quốc Hội là hình tượng cao 32 feet của một thiếu phụ tượng trưng cho miền Nam. Ðây là hình ảnh bà mẹ của phe bại trận đã có con trai hy sinh cho cuộc chiến. Phía dưới là bài thơ đại ý như sau:
“Ở đây chẳng có vinh quang hay tưởng lệ.
Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc.
Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết.”
***
Với Chiến tranh Việt Nam đã khác biệt về bản chất cuộc chiến nhưng cũng hoàn toàn khác biệt về cách xử sự giữa “bên thắng cuộc” và “kẻ thua cuộc”.
Tôi chỉ dẫn chứng ra một số sự khác biệt sau mà có thể rất nhiều người đã biết:
- Ngay sau khi lệnh của Dương Văn Minh yêu cầu binh sĩ VNCH ai ở nguyên chỗ nấy, ngừng bắn để chờ phe MTGP đến bàn giao. Thực tế sau đó “bên thắng cuộc” đã ra lệnh cho binh sĩ VNCH không những buông súng mà lột cả áo giày, cột giữa người này với người khác hoặc áp súng giải đi giữa phố phường như một cách hạ nhục người lính thua trận…
- Riêng Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu … thì bị các sĩ quan của quân Bắc Việt tay lăm lăm súng ngắn, mặt sắt lạnh lùng áp giải đến đài Phát thanh Sài Gòn để đọc lời kêu gọi binh sĩ VNCH đầu hàng không điều kiện theo nội dung viết sẵn của họ.
- Nghe nói Dương Văn Minh ngồi chờ đợi tại Dinh Độc Lập chờ “phe thắng cuộc” đến để bàn giao chính quyền thì phái đòan của Bắc Việt đến, trong đó Bùi Tín, lúc đó là Phó Tổng Biên tập Báo QĐND của Bắc Việt tuyên bố hết sức huênh hoang và kiêu ngạo đại ý là “ Các ông đã thua trận, chẳng có gì để mà bàn giao…”
- Sau ngày 30/4/1975, Chính quyền của “phe thắng cuộc” yêu cầu tất cả quân dân cán chính của chính quyền VNCH ra trình diện theo lời kêu gọi 10 điểm “khoan hồng” của Chính phủ CMLTMNVN, yêu cầu họ mang theo 10 ngày ăn để gọi là “học tập cải tạo” nhưng khi họ trình diện thì cho đi “học tập cải tạo” có người tới 10 năm, thậm chí có người cao nhất đến 18 năm “học tập cải tạo”! Một số bị chết vì nhiều trường hợp khác nhau trong các “trường học tập cải tạo” này!
- Nhà cửa tài sản của những người thuộc chính quyền VNCH bị quân quản, tịch thu và thân nhân họ cho đi vùng “kinh tế mới” …
- Nghĩa trang quân đội Biên Hòa cũng như những nghĩa trang ở các địa phương khác bị san thành bình địa…
- Sử dụng những tên gọi đầy tính khinh miệt trên báo chí, trong các xưng hô thường ngày như “bọn địch”, bọn Ngụy quân, Ngụy quyền”…
- Sau đó là đổi tiền, là những cuộc vượt biển của hàng triệu người miền Nam …
Rất tiếc vào thời điểm đó, trong hàng mớ tướng lãnh của miền Bắc Việt Nam không có một tướng nào có cái tâm và cái tầm nhìn như tướng Ulysses S. Grant của miền Bắc trong Nội chiến Hoa Kỳ, không có lãnh đạo nào của phe thắng cuộc có suy nghĩ như Tổng thống Abraham Lincoln.
Sau này ông Võ Văn Kiệt sau khi nghỉ chức Thủ tướng của Việt Nam, có phát biểu một câu mang tính vớt vát về ngày 30/4/1975 để kêu gọi về sự hòa hợp hòa giải dân tộc “ Trong ngày này (30/4/1975), có triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn”.
Giá câu này được nói thời ông Võ Văn Kiệt đang cầm quyền thì có lẽ sẽ khác nhiều…
Trước khi kết thúc bài viết này, mượn lời Tổng thống Lincoln trước khi bị ám sát chết đã nói: “Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai từ bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của bậc anh hùng sẽ phải được dựng lại ở chính nơi mà những con người vĩ đại đã ngã xuống.”
Hy vọng trong tương lai, người dân Việt khi đến ngày 30/4 hằng năm sẽ không còn “có triệu người vui cũng như triệu người buồn” nữa, và tháng Tư cũng như ngày 30/4 cũng như mọi ngày bình thường khác trên tờ lịch mà thôi …
Hoài Nguyễn - 29/4/2020