Suy niệm Chúa nhật Truyền giáo
Lời Chúa: Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20
--------o0o--------
MỤC LỤC
1. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo
2. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà
3. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương
4. Cách thức truyền giáo
5. Hãy đi khắp thế gian
6. Suy niệm của Lm Hoàng Kim Toan
7. Hãy loan báo Tin mừng
8. Chứng tá
2. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà
3. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương
4. Cách thức truyền giáo
5. Hãy đi khắp thế gian
6. Suy niệm của Lm Hoàng Kim Toan
7. Hãy loan báo Tin mừng
8. Chứng tá
-------o0o------
1. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo
Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của
Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng
của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo,
số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân
số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến
trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng
50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu
Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục
địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại
Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản
có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5
triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta
chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%.
Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người
Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105
người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ,
trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện
khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có
đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó
lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân
số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã
bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người
(lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có,
phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại
đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần
nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia
đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức
nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời
đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục
đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố,
vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì
các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y
Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải
đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo
trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận
Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của
ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn
Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để
chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào
Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững
hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban
hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt
toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên
Niên Kỷ Thứ III.
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức
Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả
các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức
Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt
lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những
lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân
của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến
tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người
được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát
làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi
“cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng
ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu
không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất
toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm
tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu
của Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi
với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ
và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì
nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi
sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng
nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều
này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: “Đức tin
càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa
Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và
tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài.
Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc
chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền
giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là:
không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân” (số 2).
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin
Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái,
công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người
giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối
Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con
người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong
thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và
đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời
sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay
phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những
con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem
Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn
sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ
cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia
vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những năm
chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
Mến Chúa và yêu người là hai giới răn
trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm
sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân
của Thiên Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn,
ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh
khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu
thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho
hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái...
Thế là hoàng tử hoá thành người nông
dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng.
Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được
kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người nông
dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã
xua đuổi anh.
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân thành nông
dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để
thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm
người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương người thân cận
là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người
thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo
tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn yêu
thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong
cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn
sóc những người ấy hết sức tận tình.
Mẹ dạy nữ tu của mẹ: "Con thấy linh mục
nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy
làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên
trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ
không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên
Chúa trong con người.
Khi hỏi tại sao người công giáo chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh?
Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống theo
đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ Têrêxa
Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta
trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều
người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người
đời xem là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi
Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta
biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến
Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn
giáo rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương
nầy.
3. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương (Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay
luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành
Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới
kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói
với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người
cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng
tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã
chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi
thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo,
thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân
tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh
biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận
cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền
giáo, khiến thánh Phaolô đã từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên
Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua
mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là
tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo
hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của
chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo
nhu cầu" (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn
hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự
liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người
đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu
cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín
hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó
đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các
tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày
xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv
2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng
đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân
thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho "càng ngày
càng có nhiều người gia nhập Giáo hội" (Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi
chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không
chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự
chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng
đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi
quý" để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn
chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho
thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng
dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của
kytô giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì người người ky-tô hữu
chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn
được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm
người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng
một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện
sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương
trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên
từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người
kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối
sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những
người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: "Nếu
những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi
cả dân tộc Ấn trở lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng
tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho
giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi
lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những
cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu
thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của
chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất
nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta,
chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao
dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết
sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi
người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo.
Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha
nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình
yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi
chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình
người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần
nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ
trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp
chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì
đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng
khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến
Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
4. Cách thức truyền giáo (Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo,
chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm
nay: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi
loài thọ tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa
không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm
tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu
biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng
quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với
đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã
đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt
người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ
giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của
Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: "Ngôi lời
đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta". Chúa Giêsu là Lời hằng
sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng
ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai
tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh
thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần
gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống
của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, "Sống để yêu
thương", và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là "dám chết cho người
mình yêu". Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là
"anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Lời Chúa và
giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu. Một
đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất để
giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải đi đôi với
nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một trong con
người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi
lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như
thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành
vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo
không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là
giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay,
thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu
như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men
ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp "khánh nhật truyền
giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: "Sứ mạng truyền giáo,
nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành
động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về
chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình
yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh
nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng
định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái.
Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của
mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn
quả quyết "Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức
Kytô".
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền
giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ
của người kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã
sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các
tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai
phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều
người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được
những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn
trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu như chúng ta.
Amen.
"Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin
Mừng..." Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối. Thế giới chẳng
phải ở đâu xa. Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân. Thế giới
là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống. Thế giới ấy, chân
tôi chưa một lần đi hết, miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng
trừ quỷ, nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ, khả
năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian, khả năng nói những ngôn
ngữ mới để đem lại hiệp nhất. Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm
việc với mình. Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống
bản thân. Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi, sống trung thực,
thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương... Một Kitô hữu nghèo mà vui
tươi, hạnh phúc, thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn, đó
cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả. Kitô giáo phải góp phần
xây dựng một thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no, nơi
nhân phẩm của từng người được tôn trọng, nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn
nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo
Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ. Mẹ đã đi
nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrexa nhỏ đã truyền giáo tại
chỗ bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé. Chị là nữ tu dòng Kín,
sống trong bốn bức tường, nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ
truyền giáo. Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân, nhưng
bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi. Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen. Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi
Nathanaen đến gặp Chúa. Cần tập đến với người khác như Đức Giêsu đã đến
với người phụ nữ Samari. Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng
Sống. Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta
cần thấm nhuần văn hóa dân tộc thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho
đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo, thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
• Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong
làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện
và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
• Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người
cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về
kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu
Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn
Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó
là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt
động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ
ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm
thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình
yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong
Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con
được thực hiện. (dựa theo lời của thánh Têrêxa)
6. Suy niệm của Lm Hoàng Kim Toan - ĐỨC MARIA, MẪU GƯƠNG TRUYỀN GIÁO
Đôi khi tôi tự hỏi, tại sao Chúa Nhật
Truyền Giáo lại được nhắc trong tháng Mân Côi, tháng dâng kính Đức Mẹ,
cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm tình thương của Thiên Chúa, bằng những tràng
chuỗi đơn sơ và thành kính nhất qua lối cầu nguyện theo Tin Mừng. Những
dòng suy niệm này trả lời cho tôi câu hỏi đó.
Những trang Tin Mừng về Đức Maria thật
là phấn khởi cho trần thế chúng ta. Có một người phụ nữ, mang trọn vẹn
sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa vào trong lòng nhân thế. Nhân loại vui
mừng bởi sự đón nhận này của Mẹ Maria, “để từ nay mọi đời sẽ khen tôi
diễm phúc”. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những kỳ công lớn lao nơi Mẹ và còn
làm những điều lớn lao ấy cho nhiều tâm hồn nhân thế chúng ta.
Sự chuẩn bị một tâm hồn vô tì tích là
sự chuẩn bị của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Đức maria
những điều lớn lao, bởi Mẹ là người đã để Chúa Thánh Thần hoạt động và
làm phát sinh hoa trái của Người. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và
quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35), hoa trái của
Chúa Thánh Thần là hoan lạc và bình an. Mẹ đã mang hoan lạc và bình an
của Thiên Chúa cắm rễ vào trong trái đất. Maria, công trình tuyệt diệu
của Chúa Thánh Thần, nhân thế có một con người được Chúa Thánh Thần
chuẩn bị cho sự toàn vẹn để xứng đáng đón nhận Đức Giêsu, Con thiên Chúa
vào trong lòng nhân thế, lịch sử đã đổi hướng đi về nguồn ơn cứu độ, về
niềm vui của Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa, và trở nên hiện thực trong
sự cưu mang này. Đức Maria trở nên người diễm phúc là nhờ sự chuẩn bị
của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần có thể làm cho con người tội nhân
của Eva cũ, xuất hiện một Eva mới vô tì tích, trong trắng đẹp lòng trước
mặt Thiên Chúa. Maria, công trình của Chúa Thánh Thần thực hiện cho
nhân loại.
Maria, là người Mẹ truyền giáo đúng
nghĩa nhất, bởi sự tinh tuyền của Mẹ, bởi Mẹ là kỳ công của Chúa Thánh
Thần hoạt động trên trái đất này. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa cho thế
gian và đưa Con Thiên Chúa vào trong thế gian và đó là Tin Mừng đúng
nghĩa nhất cho trần thế. Từ nay, nhân loại nhận ra rằng: Sứ vụ truyền
giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa
đoái thương. Đức Giêsu Con lòng Mẹ, một Người Con của nhân loại, một
người Con của Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ, suối trào niềm vui cho nhân
thế.
Người loan báo Tin Mừng là người được
Chúa Thánh Thần tác động cách đặc biệt trên cuộc đời của họ. “Đức Maria
lên đường vội vã” (Lc 1, 39). Sự vội vã của con người mang niềm vui khôn
tả, thúc đẩy mau mắn lên đường, nhắc lại hình ảnh xưa Isaia đã tiên
báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố
bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion
rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” ”. (Is 52, 7). Đức Maria mang
trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi, không thể không vui và
niềm vui chất ngất, thúc đẩy lên đường loan báo tin vui. Nếu trong lòng
tôi và trong lòng bạn mang niềm vui ngập tràn như thế tôi và bạn cũng sẽ
vội vã lên đường loan báo. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng
đúng nghĩa bởi vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa
Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn
niềm vui loan báo.
Không chỉ là loan báo mà thôi, Đức
maria còn là người công bố Tin Mừng. Người công bố là người đã xác tín
một cách chắc chắn về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đức Maria đã
nghiệm thấy như thế trong cuộc đời của Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49).
Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình, người
loan báo sẽ đi xa hơn nữa để, công bố Tin Mừng Thiên Chúa đã làm cho
mình. Sự công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy. Sứ vụ
loan báo Tin Mừng hôm nay, cần chứng nghiệm nơi người loan báo Tin Mừng
như thế, bởi vì người ta đang cần chứng nhân hơn thày dạy. Đức Maria
nhận ra bàn tay Toàn Năng của Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của
Mẹ, nên Mẹ là người công bố sứ điệp chắc chắn về Ơn Cứu Độ của Thiên
Chúa cho nhân loại.
Niềm xác tín của Đức Maria mang một
chiều kích rất riêng tư, nhờ Mẹ đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy
trong lòng” (Lc 3, 51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa
đã thực hiện nơi mình, là cuộc trao đổi, đối thoại giữa nhưng khó khăn,
thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm
ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ. Sự
chiêm ngắm, đối thoại dẫn đến một xác tín riêng tư chắc chắn để đi đến
một công bố cho muôn người. Con đường cầu nguyện của Đức maria đã đi qua
là con đường mời gọi những người truyền giáo hôm nay thực hiện.
Truyền giáo không là công cuộc cày xới
những mảnh đất hoang, cũng không là công cuộc cải đạo cho những người
khác niềm tin. Đối với Đức Maria truyền giáo có nghĩa là đem chính Đức
Giêsu cho nhân loại. Đức Giêsu có là niềm vui cho bạn không? trước khi
là niềm vui công bố cho người chung quanh bạn, trở lại niềm xác tín này
chúng ta trở lại niềm xác tín của Đức Maria, khi Mẹ xác tín: “Linh hồn
tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã
gặp thấy và cưu mang chính niềm vui của Đức Giêsu trong lòng Mẹ. Đức
Maria không mang niềm vui nào khác ngoài niềm vui: “Thần trí tôi hớn hở
vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Niềm vui của
Thiên Chúa trong ngày Thiên Chúa đoái thương, ngày nào không là ngày
Thiên Chúa đoái thương, nhưng đôi lúc chúng ta lại quên mất cảm nghiệm
thực sự điều này, để rồi sứ vụ truyền giáo của mỗi thành viên chúng ta
cứ hoài dang dở. Đức Maria đã mang chính Đức Giêsu, quà tặng tuyệt hảo
nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho
nhân loại.
Dù là người loan báo, dù là người công
bố Tin Mừng đi chăng nữa, Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt
động của Chúa Thánh Thần. Không thể tách rời Đức Maria khỏi hoạt động
của Chúa Thánh Thần, Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh
Thần. Dù Đức Maria có được như thế nào chăng nữa, Mẹ cũng luôn đặt mình
trong tâm khảm của người: “phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn
tới” (Lc 1, 48). Người truyền giáo cũng thế, không thể tách rời Chúa
Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm
của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động
của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần mời gọi con người theo nhiều nẻo
đường khác nhau, để quy tụ cho Thiên Chúa một Dân được hiến thánh. Chúng
ta là những dụng cụ Thiên Chúa dùng, và hãy đặt cuộc đời mình vào bàn
tay của Thiên Chúa.
Không có công trình nào là thua mất cả
với ánh mắt nhìn đức tin của Đức Maria, đôi khi gặp những người cứng cỏi
quá sức, hãy phó dâng cho Thiên Chúa, như người gieo giống chỉ biết chờ
đợi cho hạt giống nảy mầm. Đức Maria đã thấy nghiệm điều này trong cuộc
đời của Mẹ: “Chúa biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu
căng” (Lc 1, 51). Chúng ta cần biết chờ đợi điều Thiên Chúa sẽ cho mọc
lên, sự chờ đợi là một bài học cuối kết thúc cho sứ vụ truyền giáo chúng
ta học nơi Đức Maria.
Kính dâng Mẹ những suy nghĩ này, bởi hơn ai hết Mẹ là vị Thày tốt nhất dạy chúng con sống sứ vụ truyền giáo.
7. Hãy loan báo Tin mừng
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có
biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối
lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và
ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt
được con nào là con bò con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không
phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui
là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào
là cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy
không ai trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện,
ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và
nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy
có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn
dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả
những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh
sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của
mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh
sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo
tại Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối
ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết
bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ
chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào
phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn
trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì tất
cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức
tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với
ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp
căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có
một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây
đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ
khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ
Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm
và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới
thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn
lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người
đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không
phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt.
Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống.
Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông
vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa
soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ.
Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng
ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người Samaritanô nhân hậu cúi xuống săn
sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau.
Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ
người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc
để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây
bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người
theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục
vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được
thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel
Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có
phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques
Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn
không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang. Hai
mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành
công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối.
Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của
thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp
tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới
muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường
của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống
đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và
cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như
lời Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng
khắp thế giới.
Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho việc
truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền
giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin
yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi.
Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô
hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc
rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội
và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định
nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa
vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng
gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo
không thể là một việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là
vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của
chính mình.
Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về
tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người
giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng,
là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm
nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân
những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt
mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường… nhưng
chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân
công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ
búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt
và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động.
Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn
đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những
hoàn cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có
hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất
là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống
thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta
chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những
bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương
mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi
lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm
viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử
đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một
nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến
độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và
yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa
Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày
gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ.
Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của
mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không
chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu
thương.
Có người đã kể lại lý do và động lực
thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào
bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất
tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy
chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả
lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy
lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người
chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy
tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi
đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương
sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa.
Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà
thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu
lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra
Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không
ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng
đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của các giám
mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho
việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt
nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ.
Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta
hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng
nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm
làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: “Chính nơi điều
này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em
thương yêu nhau”.
Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm
nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền
giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo
của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét