Ngày 15-10: Thánh Têrêsa Avila, đồng trinh Tiến sĩ Hội Thánh
Ngày 15 tháng 10
Thánh Têrêsa Avila, đồng trinh Tiến sĩ Hội Thánh
(1515 – 1970)
Thánh Têrêsa Avila, đồng trinh Tiến sĩ Hội Thánh
(1515 – 1970)
Sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515,
Têrêsa Avila là một trong 12 người con của ông Anphong Cpêda, lớn lên
tại Avila, vương quốc Castille, miền đất của mộng mơ và của các thánh.
Ngài ham thích đọc các sách dạy sống khổ hạnh và suy gẫm cuộc đời các
thánh. Với lòng nhiệt thành, Ngài ngây ngất vì hạnh phúc vĩnh cửu ân
thưởng cho những đau khổ của các thánh, cũng như kính sợ những khốn khổ
của hoả ngục tồn tại mãi mãi. Ngài đã nói trong run sợ:
- Ai có thể chịu nổi cái ý nghĩ như vậy được?
- Ai có thể chịu nổi cái ý nghĩ như vậy được?
Mong mỏi được tử đạo, một
ngày kia, Ngài lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn đang hành
hạ các Kitô hữu này. Nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt
được và dẫn đưa về nhà. Không tử đạo được, các em sẽ trở thành những nhà
ẩn tu. Các em làm những cái hầm và cầu nguyện nhiều giờ tại đó. Nhưng
rồi một ngày kia, những bức tường nhỏ bằng đá bị sập. Các em nhỏ thánh
thiện này thường nhịn ăn để làm việc bác ái. Năm 13 tuổi, tức năm 1528,
Têrêsa Avila mất mẹ, Ngài khẩn nài Mẹ Maria là Mẹ. Chuỗi Mân Côi trở
thành vịệc sùng kính đặc biệt của Ngài.
Têrêsa Avila có một bản chất
ngay thẳng, nhiệt hành và tha thiết mến Chúa. Khoảng 15 tuổi, Ngài lén
đọc các truyện kiếm hiệp làm cho Ngài ra mơ mộng. Lúc này, Ngài muốn mặc
đẹp, xức dầu thơm, lo trang sức và thích được ve vãn. Chị em cho Ngài
xinh đẹp. Một cô em họ ngây ngất không muốn rời xa Ngài. Họ nói truyện
phiếm với nhau hàng giờ. Têrêsa Avila nói:
- Tôi được cứu thoát, chính là vì kính sợ Chúa, điều mà tôi không bao giờ bỏ mất, và vì sợ mất danh dự.
- Tôi được cứu thoát, chính là vì kính sợ Chúa, điều mà tôi không bao giờ bỏ mất, và vì sợ mất danh dự.
Ngài còn nói:
- Tôi đã rất ghê tởm những điều bất lương.
- Tôi đã rất ghê tởm những điều bất lương.
Dầu vậy cha Ngài cũng lo âu
và quyết định gởi Ngài học nội trú ở nơi các nữ tu dòng thánh Augustinô.
Têrêsa Avila không thích thú gì, nhất là đã không hề muốn rằng sau này
mình sẽ là nữ tu. Nhưng Ngài phải vâng lời. Và Ngài sắp tìm lại được
lòng đạo đức nhiệt thành của tuổi thơ khi sống gần các bậc thầy này. Hơn
khi nào, Ngài khao khát những của cải đời đời. Nhưng đời sống khắc khổ
trong tu viện làm Ngài run sợ.
Têrêsa Avila ngã bệnh. Ngài
trở về nhà cha và nghe ông cậu nhắc lại rằng mọi sự đời này chỉ là phù
vân và sẽ qua mau như chớp. Sau cùng Ngài hiểu rằng: ơn gọi của mình là
sống đời tu sĩ. Nhưng những chống đối dữ dội nổi lên trong lòng. Hơn
nữa, Ngài phải coi thường những chối từ của cha Ngài. Năm 1536, Ngài vào
dòng kín Carmêlô, sau khi phải chịu đựng cuộc chiến đấu kinh khủng với
chính mình: để giã từ nhà cha, Ngài khổ sở đến độ xương cốt như rã rời
và tan nát con tim. Nhưng rồi Ngài đã mạnh mẽ thắng vượt mọi cám dỗ đau
khổ.
Têrêsa Avila đã trải qua 27
năm tại tu viện Nhập Thể, là nơi luật lệ được châm chước cho phép giải
trí và tiếp khách, Ngài còn phải qua một bước dài trước khi dấn mình vào
con đường cực nhọc để xây dựng và cải sửa các dòng tu. Trước hết, sức
khỏe của Ngài xem ra không chịu đựng nổi. Bệnh tật, Ngài trở về nhà, các
bác sĩ tuyên bố là bất trị, Ngài tín thác vào thánh Giuse và khỏi bệnh
sau một cơn ngất trí. Trở lại tu viện, Ngài được chị em yêu mến. Cách
nói chuyện hấp dẫn của Ngài lôi kéo nhiều cuộc viếng thăm. Ngài kể lại:
- Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.
- Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.
Ngày kia trong một câu chuyện
trần tục, Ngài đã được thị kiến thấy Chúa Giêsu đầy thương tích. Têrêsa
Avila thấy đau lòng, nhưng Ngài còn phải chiến đấu nhiều để đạt tới chỗ
chỉ yêu các tạo vật trong Chúa và vì Chúa. Trong nhiều năm, Ngài đã
trải qua sự khô khan, qua cơn sợ hãi hỏa ngục. Trong vòng 20 năm, Ngài
đã không tìm ra cha giải tội hiểu được Ngài và muốn bàn về việc thị
kiến. Thánh Phanxicô Borgia đã trấn an Ngài. Sau cùng, các cha giải tội
buộc Ngài ghi lại điều đã xảy ra trong tâm hồn. Và thánh nữ, một con
người ít học, đã viết nên được những tác phẩm có giá trị, đến nỗi Ngài
đã đáng được danh hiệu là TIẾN SĨ HỘI THÁNH.
Nếu trước hết, sự sợ hãi các
khổ cực đời đời đã dẫn Têrêsa Avila vào đường hẹp đưa tới chỗ cứu rỗi
thì bây giờ tình yêu Chúa xâm chiếm Ngài như cơn hỏa hào. Các cuộc xuất
thần tăng thêm. Ba Ngôi, Đức Trinh nữ, các thiên thần và các thánh hiện
ra với Ngài. Ngài được nâng lên khỏi mặt đất và ở nguyên như vậy khi cầu
nguyện. Vào tuổi 43, thánh nữ thường thấy Đấng cứu thế và nghe Người
nói:
- Cha không muốn con nói truyện với loài người, nhưng với các thiên thần.
- Cha không muốn con nói truyện với loài người, nhưng với các thiên thần.
Một thiên thần dùng giáo đâm
thủng tim Ngài và Chúa Giêsu gọi Ngài là hiền thê. Cho tới cuối đời,
Ngài đã hiệp nhất với Đấng cứu chuộc bị đóng đinh và đã ước được chịu
khổ vì Người đến nỗi người ta thường nghe Ngài kêu lên:
- Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ.
- Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ.
Ngài tự ràng buộc bởi lời
khân anh hùng này, là luôn làm điều thiện hảo hơn, nhưng lại chẳng tỏ ra
nhiệm nhặt chút nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới độ
gõ sênh mua vui cho các nữ tu dòng kín Camêlô. Vị nữ tu chiêm niệm này
còn tỏ lộ một sự hiểu biết tích cực, một tinh thần thực tiễn sẽ đưa Ngài
tới cuộc cải đổi dòng Carmêlô.
Định mệnh đặc biệt sắp đưa
Ngài qua mọi chặng đường để thiết lập các tu viện. Trước hết năm 1562,
khép mình ở Avila nhưng một nhà mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ tu
sống trong thinh lặng, nghèo khó, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không
trong mọi mùa, Têrêsa Avila ra khỏi nơi này và không ngừng thiết lập, tổ
chức những tu viện mới. Hầu như luôn luôn bệnh hoạn, Ngài theo đuổi
những cuộc hành trình mệt lả trước sự nóng nung, làm mồi cho các côn
trùng tấn công hay những đêm lạnh lẽo mùa đông đã giữ Ngài lại trong
những đoạn đường không tên không có nơi trú ẩn. Những cuộc bắt bớ tấn
công Ngài. Ngài viết cho một ân nhân:
- Cho tiền bạc chẳng là gì, nhưng khi chúng tôi như đến lúc bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy.
- Cho tiền bạc chẳng là gì, nhưng khi chúng tôi như đến lúc bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy.
Và khi Ngài đã vượt thắng mọi
ngăn trở và thiết lập các tu viện mới, cơn đau đớn nhức nhối lại đợi
chờ Ngài vì phải giã từ con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở nơi
khác. Đây là:
- Nỗi thống khổ đớn đau nhất. Tim tôi tan nát đau khổ nghĩ rằng: sẽ không còn gặp lại họ nữa.
- Nỗi thống khổ đớn đau nhất. Tim tôi tan nát đau khổ nghĩ rằng: sẽ không còn gặp lại họ nữa.
Thánh Gioan Thánh Giá trợ
lực, Ngài trải rộng việc canh tân tới các cha dòng Carmes mà Ngài muốn
tái lập sự nghiêm ngặt ban đầu, điều gây nên cho Ngài nhiều xôn xao và
dường như làm cho Ngài bị cầm tù. Nhà vua và Đức Giáo Hoàng bảo vệ Ngài.
Ngài đã thiết lập hơn 30 tu viện. Hoạt động chưa từng nghe thấy của
Ngài, những việc thiết lập, những cuộc du hành, những khó khăn vô số...
đã không ngăn cản Ngài vui hưởng sự hiện diện của Chúa, kiên trì cầu
nguyện, và thường xuất thần, Ngài nói:
- Tôi không hiểu tại sao người ta bảo tôi là nhà sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi.
- Tôi không hiểu tại sao người ta bảo tôi là nhà sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi.
Người ta còn nói lại những
phép lạ của Ngài, như tăng thêm đống bột để nuôi cả cộng đoàn. Khi đi
qua đồng quê, nhiều gia đình lũ lượt xin Ngài ban phép lành.
Giữa các hoạt động lạ lùng,
Têrêsa Avila vẫn viết về đời mình mà Ngài gọi là sách các kỳ công của
Chúa, và LÂU ĐÀI NỘI TÂM là nơi tâm hồn Ngài, từng phòng một vươn tới uy
linh Chúa. Với sự linh hoạt, Ngài biết dùng vài lời tóm gọn tất cả sự
thánh thiện:
- Phải can đảm để trở thành phụ nữ của Vua trên trời.
- Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu nhiều.
- Ta nhân đức hơn khi liên kết với nhân đức của Chúa, hơn là dính chặt với phận bụi đất của ta.
- Nỗ lực của ta là bắt chước con tằm, xây tổ của ta bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện những việc xám hối cầu nguyện, hy sinh, vâng lời. Thiên Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn.
- Quan trọng là biết yêu mến và kính sợ, hai nhân đức vĩ đại.
- Khi bị đau khổ bên ngoài cần chăm lo làm việc bác ái và biết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa.
- Phải can đảm để trở thành phụ nữ của Vua trên trời.
- Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu nhiều.
- Ta nhân đức hơn khi liên kết với nhân đức của Chúa, hơn là dính chặt với phận bụi đất của ta.
- Nỗ lực của ta là bắt chước con tằm, xây tổ của ta bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện những việc xám hối cầu nguyện, hy sinh, vâng lời. Thiên Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn.
- Quan trọng là biết yêu mến và kính sợ, hai nhân đức vĩ đại.
- Khi bị đau khổ bên ngoài cần chăm lo làm việc bác ái và biết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa.
Ngài có chút hài hước trong sự thánh thiện, như lời hóm hỉnh được biết đến nhiều, khi Ngài bị thương ở chân:
- Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện đó nữa,
- Cha đối xử với bạn hữu của cha như thế đó.
- Vâng lạy Chúa của con, không lạ gì mà Chúa ít bạn.
- Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện đó nữa,
- Cha đối xử với bạn hữu của cha như thế đó.
- Vâng lạy Chúa của con, không lạ gì mà Chúa ít bạn.
Lòng Ngài rảo khắp thế giới:
- Những người Ấn độ nghèo khổ này làm tôi đổ bao nhiêu là nước mắt.
- Những người Ấn độ nghèo khổ này làm tôi đổ bao nhiêu là nước mắt.
Têrêsa Avila qua đời tại miền
quê ở Albe de Tormès ngày 04 tháng 10 năm 1583. Chính tình yêu quá mức
hơn là con bệnh đã đưa tới cái chết của Ngài. Khi đưa Thánh Thể vào
phòng, Ngài đã ngăn cho Ngài khỏi tung ra khỏi giường. Ngài đã la to:
"Lạy Chúa, đến lúc chúng ta gặp nhau rồi". Và đời đời, Têrêsa Avila đã
hiệp nhất với tình yêu.
Ngài được phong thánh năm 1628. Và ngày 27 tháng 9 năm 1970, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã đặt Ngài làm Tiến sĩ Hội Thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét