Quan trấn thủ Quy
Nhơn - Trần Đức Hòa qua tư liệu truyền giáo Đàng Trong
“Tường trình về khu
truyền giáo Đàng Trong 1631” của Cristophoro Borri, được viết từ những năm 1621
– 1622, khi ông truyền giáo tại Nước Mặn (Phước Quang, Tuy Phước, Bình Định) và
được xuất bản năm 1631 tại Roma. Sách viết bằng tiếng Ý, trong đó có sử dụng
một số chữ quốc ngữ thời kì phôi thai và được dịch sang tiếng Pháp, Latinh, Hà
Lan, Đức, Anh vào những năm 1631 – 1633. Đây là tác phẩm đầu tiên của một tác
giả châu Âu viết về “xứ Đàng Trong” gồm 18 chương. Trong đó, Cristophoro Borri
dành hẳn 2 chương (9 và 10) viết về một người Quy Nhơn – quan trấn thủ Trần Đức
Hòa.
Trần Đức Hòa người xã
Bồ Đề, huyện Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn (nay là thôn Hy Văn, xã Hoài Sơn, huyện
Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định). Là bề tôi trung tín của Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng,
1600 – 1613) và Chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên, 1613 – 1635). Trong thời gian
nhậm chức Tuần phủ khám lý phủ Quy Nhơn, ông có công giữ yên trấn lỵ, tích trử
lương thực cung ứng cho nhu cầu “Định Bắc” của Chúa Nguyễn. Được Nhà Nguyễn
phong Đệ nhất đẳng khai quốc công thần.
“Quan Trấn tỉnh Quy
Nhơn” cưu mang các nhà truyền giáo
Năm 1617, Đàng Trong
bị mất mùa vì hạn hán. Người dân cho rằng vì bỏ đạo ông bà tổ tiên mà theo đạo
mới, nên tai họa ập tới. Do đó, qui trách nhiệm cho các thừa sai và Đạo mới,
các thừa sai bị áp lực buộc trục xuất. Lúc bấy giờ, quan trấn thủ Quy Nhơn Trần
Đức Hòa đang đi công cán ở Đà Nẵng chứng kiến cảnh khốn khổ của các cha, động
lòng thương ông đã truyền cho đón các cha về Quy Nhơn.
Borri viết “chúng tôi
bỏ Hội An, cha Buzomi, cha Đơ Pina và tôi, để đi Quy Nhơn theo quan trấn thủ
của tỉnh đó. Suốt cuộc hành trình, ông đối đãi với chúng tôi rất lịch sự và tỏ
ra hết sức tử tế”. Quan trấn thủ dành cho các nhà truyền giáo và các người
thông ngôn một chiếc thuyền riêng với đầy đủ tiện nghi, suốt 12 ngày lênh đênh
trên biển bằng đường thủy. Sáng chiều cập bến các hải cảng ở cạnh những thành
phố đẹp thuộc tỉnh Quảng Ngãi. “Nơi đây, ông cũng có quyền như ở Quy Nhơn, mọi
người đều ra đón, chúc mừng và tỏ rõ lòng qui phục cùng nhận quyền với nhiều lễ
vật quí và chúng tôi cũng là những người thứ nhất được dự phần, do lệnh quan
trấn thủ muốn thế…tới đâu ông cũng cho tổ chức trò chơi và hội vui công cộng,
khi thì đấu chiến ghe thuyền, lúc thì đua chèo thuyền…cứ thế, rồi chúng tôi tới
tỉnh Quy Nhơn, nhưng còn phải đi mấy ngày đường trước khi về tới dinh quan trấn
thủ…Sau những cuộc vui và cỗ bàn trong cuộc hành trình, chúng tôi được tiếp đón
rất trịnh trọng và đặc biệt, thường chỉ dành riêng cho các ông hoàng bà chúa”.
Theo đề nghị của các
nhà truyền giáo, quan trấn thủ Quy Nhơn lệnh cho xây dựng một trụ sở và một nhà
thờ ở một địa điểm thuận tiện: cảng thị Nước Mặn. Ba ngày sau, các nhà truyền
giáo nhìn thấy trong cánh đồng kia một đạo quân lớn hơn một nghìn người đi tới
khuân vác các bộ phận của nhà thờ. Mỗi cột có ba mươi người lực lưỡng và khỏe
mạnh khuân vác. Còn những người khác thì vác xà, người đem ván đến lắp, người
đem nóc, kẻ mang sàn, người khuân cái này kẻ mang cái khác. Tất cả đều trật tự
mang đến, mỗi người một bộ phận. Thợ cả giăng giây “lấy mực đất”, vạch hết các
khoảng gian và chỗ giữa hai cột, rồi ông cho tuần tự đem tới dựng vào vị trí,
mỗi người đem lắp một bộ phận và ra về ngay. Tất cả khối lớn lao đó được dựng
trong một ngày. Tuy nhiên, vì làm vội vã, thiếu cẩn thận nên ngôi nhà không
được đứng thẳng lắm. Quan trấn thủ biết được, truyền tháo dỡ ra và lắp ráp lại.
Văn nhân Nước
Mặn với việc phôi thai chữ quốc ngữ
Theo các bản phúc
trình chính thức của cơ sở truyền giáo Nước Mặn gửi về La Mã và những bức thư
từ Đàng Trong gửi về Ma Cao, hiện lưu giữ ở Văn Khố dòng Tên. Những bản dịch
các văn bản Kitô giáo đầu tiên ra Tiếng Việt có từ năm 1618, và phần thiết yếu
do công của Pina. Trong công việc của mình, ông đã nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu
hiệu của một văn nhân trẻ tuổi có kiến thức chữ Hán uyên bác. Theo lời xác nhận
của Pina, ngay từ năm 1622, ông đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống chuyển
mẫu tự La tinh cho thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt Nam. Ông đã làm
được một tuyển tập và bắt đầu viết một bản văn phạm. Kết quả đó, ông đã đạt
được một cách vất vả, với sự trợ giúp của một số học sinh Việt Nam. Cuốn Tường
trình về khu truyền giáo Đàng Trong, Borri viết bằng tiếng Ý, tuy nhiên trong
đó có một vài câu chữ quốc ngữ, cho chúng ta biết: ngay từ những năm 1618 –
1620 đã có một khởi đầu hình thành thứ chữ này ở cơ sở truyền giáo Nước Mặn.
Quan Trấn Quy Nhơn đã
cưu mang, bảo hộ, che chở các nhà truyền giáo với nhiều đặc ân: mời về Quy
Nhơn, dựng cho trụ sở và nhà thờ tại Nước Mặn, trợ cấp tiền để sống và hoạt
động truyền giáo. Do vậy, sẽ không công bằng khi nói về công lao của các nhà
truyền giáo sáng chế ra chữ quốc ngữ tại cơ sở Nước Mặn mà không ghi nhớ sự
giúp đỡ của “văn nhân trẻ tuổi” và một số học sinh vùng Nước Mặn, đặc biệt là
sự đóng góp mang tính “quyết định” của quan Trấn thủ Quy Nhơn Trần Đức Hòa. Vì
lẽ, nếu không có ông cưu mang, chắc chắn các nhà truyền giáo ngoại quốc này bị
trục xuất khỏi Đàng Trong vào năm 1618 theo lệnh cấm đạo của chúa Nguyễn đã ban
bố.
Đám tang của quan
trấn thủ Quy Nhơn
Sau một lần quan trấn
thủ Quy Nhơn đi săn voi trong trời nắng nóng gay gắt, về nhà ông lên cơn sốt
cao liên tục trong 3 ngày, đến ngày thứ 3 bị mê sảng. Cơn mê sảng kéo dài thêm
3 ngày nữa khiến ông kiệt sức và trút hơi thở cuối cùng.
Trước khi ông còn
trong cơn hấp hối, có 2 người thường xuyên ở bên cạnh, liên tục lấy mã tấu chém
vào không khí, nhiều người khác đứng xung quanh vung kiếm đao trong không khí
và bắn nỏ, súng qua các gian phòng trong dinh, nhằm để cho tà ma sợ hãi, không
cho chúng làm hại hồn vía quan trấn khi ra khỏi thân xác. Theo tục lệ lúc bấy
giờ, bất cứ một nhân vật vị vọng nào mất, thì các vị sư sãi hội nhau để tìm
“nguyên nhân”. Cuối cùng các sư đã tìm ra cái chết của quan trấn là do một cái
xà nhà đã rơi hôm trước ở tư dinh mới dựng. Và họ đã cho châm lửa vào tòa nhà
mới làm thiêu rụi thành tro. Sau cùng là cuộc ma chay và những lễ nghi tôn kính
vị quan quá cố.
Bấy giờ, họ hàng mong
muốn cho người quá cố trong dịp này tìm được một người nào trong họ để nhập vào
giảng giải cho biết tin tức và tình trạng người quá cố. Và người chị của quan
trấn, người được ông yêu quý hơn tất cả những người trong họ nhận được đặc ân
đó. Vốn bà đã có tuổi và yếu sức, nhưng khi được hồn nhập bà vứt gậy nhảy múa
như người khoẻ mạnh và nói về em mình những điều không thể nghe thấy bằng tai
mắt. Khi hồn ra khỏi bà, bà ngã lăn xuống đất, nằm suốt 8 ngày rã rời.
Lễ tang ông được tổ
chức với “Những nghi lễ một cách rất trịnh trọng, rất huy hoàng để người quá cố
trở thành bất tử và để ghi nhớ, kính trọng và tôn thờ muôn đời…”. Thế là có sắc
lệnh của Chúa Nguyễn truyền: trong đám tang không được tỏ ra đau khổ, buồn rầu
như những người khác, mà phải mở hội vui linh đình để cho mọi người hiểu ông
xứng đáng được vinh dự, được lên ngang hàng với thần thánh.
Xác của quan trấn
được đặt trong một quan tài bằng bạc, để trong nhà táng và phải mất 3 ngày
đường, đoàn tùy tùng rất đông người đưa linh cửu ông về đến nơi sinh quán.Tới
giữa cánh đồng rộng lớn, cách biệt làng mạc, mọi người dựng một tư dinh tạm
nhưng được trang trí lộng lẫy như tư dinh của quan ở trước khi mất. Giữa tư
dinh, dựng một ngôi đền rất đẹp với một bàn thờ lộng lẫy, trên đó đặt linh cửu
được bao phủ rất nghệ thuật với nhiều biển hiệu, bức họa. Đồng thời làm rất
nhiều mô hình thuyền chiến (mà lúc sinh thời ông rất ham mê bảo dưỡng), được
gắn những bánh xe để đi trên cạn, mô hình voi, ngựa cùng tất cả đoàn tùy tùng
ông thường đem theo khi còn sống. Suốt 3 ngày liền cúng tế và làm các nghi lễ
với năm – sáu trăm thầy sãi mặc toàn màu trắng. Cỗ bàn công cộng thết đãi trong
3 ngày hơn hai nghìn người, những bậc vị vọng mỗi người một mâm theo tục bản
xứ. Sau 3 ngày, châm lửa đốt tất cả đồ mã. Thi hài ông được chuyển đi chôn bí
mật, đến 12 điểm và đắp 12 ngôi mộ, nhưng chỉ có một ngôi mộ là có hài cốt. Vì
chịu ơn quan trấn nên tất cả các nhà truyền giáo đều có mặt suốt trong thời
gian tổ chức các nghi lễ long trọng này.
Chúa Nguyễn truyền
lấy 3 năm lợi tức của tỉnh chi phí cho việc ma chay của quan trấn. Trong thời
gian 3 năm, chúa không cắt đặt một quan trấn khác thay thế, vì mọi người đều
tin chắc hồn người quá cố được liệt vào hàng thần thánh, và có thể tự mình cầm
quyền cai trị trong 3 năm đó. Trong khi chờ đợi, chúa đặt người con của người
quá cố làm Phó trấn thủ…
Một nhân vật lịch sử
được nhà Nguyễn tôn là bậc khai quốc công thần với nhiều công trạng, là “nghĩa
đệ” của chúa Nguyễn ở Đàng Trong như Trần Đức Hòa mà tư liệu về ông được biên
soạn quá muộn và ít ỏi (sau hơn 200 năm) trong Đại Nam liệt truyện tiền biên
(biên soạn từ 1841 – 1852) và Đại Nam nhất thống chí (biên soạn từ 1865-1882).
May mắn chúng ta có thêm bản tường trình của các nhà truyền giáo được viết cùng
thời Trần Đức Hòa (1621-1622), đây là nguồn tư liệu quí để bổ sung, đối chiếu
với nguồn tư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Nguyễn Thanh Quang – Lê Vân
(Nguồn: BaoBinhDinh.com.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét