LINH MỤC GIUSE HOÀNG NGỌC MINH VÀ LINH MỤC THÉOPHILE BONNET
QUÝ
Trả
lời trong một cuộc phỏng vấn của Tạp chí Eglises d'Asie gần đây, Đức Cha
Aloisiô Nguyễn Hùng Vị, Giám Mục Gp. Kon Tum có nhắc đến 2 vị linh mục của Giáo
phận đã hy sinh trong lúc thi hành nhiệm vụ mục tử:
"...Chúng
tôi không quên các vị tử đạo của mình, Cha Minh và Cha Bonnet đã bị sát hại
trong thời chiến khi họ đang trên đường đi cử hành Thánh lễ"...
(x. Eglises
d'Asie - le 01/11/2018 / Frédéric Mounier - Nguyễn Trọng Đa chuyển ngữ - Nguồn:
www.vietcatholic.org)
______________________________________
LINH MỤC GIUSE HOÀNG NGỌC MINH
(1915 - 1960)
Lm Gp Kon Tum
Năm
1915, Giuse Hoàng Ngọc Rậu (tức Minh), sinh ra trong một gia đình công
giáo làng Hội Am, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt).
Là
con thứ hai trong gia đình, cậu bé Hoàng Ngọc Minh có ước
muốn dâng mình từ khi còn rất nhỏ. Cậu bị cha xứ từ chối
hai lần vì lý do còn nhỏ tuổi. Nhưng rồi dịp may đến:
có người giới thiệu cậu đến với cha Nhã ở Đồng Xá,
cậu được nhận vào ban giúp lễ gần được một năm. Cha Nhã giao cậu
giúp lễ cho cha Trọng là nghĩa tử của ngài mới được phong
chức. Sau một thời gian, năm lên 10 tuổi cậu dâng mình vào“Nhà Đức Chúa
Trời” giúp cha già Thịnh ở xứ Cốc, Vĩnh Bảo trong một
thời gian.
Lên
12 tuổi, cậu được nhập Trường Thử tại Đông Xuyên, sang Tiểu
chủng viện Ba Đông và rồi qua Giáo hoàng Chủng viện Alberto
NamĐịnh. Đang truyền giáo ở Kẻ Sặt, được biết tại
Kontum có một Hội thừa sai Việt Nam vừa thành lập và đã được Tòa
Thánh châu phê, thầy Rậu liền xin nhập Hội năm 1941. Sau thời gian giúp dạy
học ở Tiểu chủng viện Kontum, năm 1942, thầy được Đức cha
Khâm (Jean SION) gởi đi học tại Đại chủng viện Xuân Bích,
Hà Nội. Nhưng vì chiến cuộc, năm sau Bề Trên lại gọi thầy về Đại
chủng viện Qui nhơn. Ngày 21-10-1948, quân đội Pháp đổ bộ lên
hải cảng Qui Nhơn. Thầy đã xuống tàu vào Nha
Trang để về lại Kontum.
Ngày
3-4-1949 thầy Rậu (từ nay lấy tên là Minh) thụ phong linh mục
doĐức cha Khâm. Trước hết cha Minh đi làm phó cha già Simon
Thiệt ởVõ Định ngày 20-4-1949. Sau đó cha học tiếng Bahnar
mấy tháng ởMangla. Tháng 12 năm 1950, người được gọi đi chánh
sở Kon Dŭ. Địa sởnày lúc ấy mới thành lập, thiếu thốn tất
cả và núi non hiểm trở. Một chú giúp ngài kể lại: khi cha
mới lên nhận sở, mấy ngày đầu, thấy tình cảnh buồn tẻ, các chú giúp “mỗi
anh một góc nhà ngồi quay mặt ra rừng khóc sướt mướt”.
Trong
10 năm ở Kon Dŭ, nhờ ơn Chúa, cha đã rửa
tội được đến 10 làng Xơđăng. Cha là một trong những linh
mục đầu tiên mở trường học với ký túc xá cho con em dân tộc
(năm 1952). Năm 1959, 3 làng nhỏ ở Kon Dŭ đã bàn tính với
cha để tập trung làm một làng lớn ở Kon Kơla nhưhiện nay.
Ngoài công việc truyền giáo, cha còn mở nhà hộ sinh, phòng phát
thuốc để săn sóc sức khỏe cho người dân tộc, không phân biệt lương
giáo. Cha đang xây dựng một nhà thờ dài gần 40 mét, ngang 12 mét,
toàn bằng gỗ cẩm lai và trắc. Trong thời gian này, cha Minh bịphong
tê thấp rất đau đớn, có lúc cha
phải “bò lết” trong nhà. Vì bệnh quá nặng, ngày
14-9-1960 cha phải về điều trị tại nhà Chung Kontum. Ngày
24-9-1960 được tạm bình phục, cha vội
vã trở về sở với đoàn chiên. Dù sống trong vùng
chiến cuộc leo thang, nguy hiểm tính mạng, nhưng cha vẫn vui lòng xin
Bề trên ở lại, sống chết với con chiên.
Ngày
27-9-1960 cha Gioan Baotixita Nguyễn Quang Huy mời người đến họ Tân
Cảnh làm phó tế giúp lễ mồ. Sáng hôm sau, như được ơn
Chúa soi sáng, cha dọn mình xưng tội sốt sắng. Sau lễ, cha đi thăm bạn
bè và giáo hữu quen biết ở Tân Cảnh. Độ 10
giờ sáng ngày 28-9-1960 cha trởvề Kon Kơla. Khoảng 11 giờ trưa,
chỉ còn cách nhà 4 cây số, bị phục kích, xe vừa ngừng thì toán
người từ trên mô đất cao nhảy xuống dùng cây vót
nhọn đâm đánh cha tàn nhẫn và bắn cả loạt súng vào thân
mình cha. Cha ngã gục trên xe; tài xế Huỳnh Hữu cháu của ngài cũng
bị 8 viên đạn bất tỉnh. Mấy phút sau, anh Hữu hồi tỉnh, thì bọn
sát nhân đã tẩu thoát. Tuy bị trọng thương, anh còn cố lái
xe đi một quãng độ 1 cây số; nhưng rồi kiệt sức không
lái được nữa, anh để xác cha trên xe, lần mò về rẫy
dân tộc gần đó báo tin. Được hung tin, dân làng kẻ đao
người ná chạy ra phụ lực đẩy xe đưa thi hài cha
về nhà xứ cầu kinh,đồng thời cho người cấp báo địa phương.
Tại
Tân Cảnh, vào lúc 18 giờ, khi nghe tin linh mục Hoàng Ngọc Minh bị hạ sát,
cha Gioan Baotixita Nguyễn Quang Huy đến Kon Kơla lúc nửa đêm. Vào 2
giờ sáng 29-9-1960, thi thể cha được đưa ra xe rước về nhà thờ Tân
Cảnh. Sau đó cha Gioan Baotixita Nguyễn Quang Huy đã cử hành
lễ mồ cầu cho cha, cùng với cha Léoni làm tùy
phó tế như trong lễ mồ mà chính cha mới giúp
nơi đây hôm qua và cha Gioakim Chế Nguyên Khoa làm phó tế.
Lễ xong, linh cửu của ngài được rước về Nhà Chung Kontum lúc 2
giờ chiều ngày 29-9-1960 và ngay sau đó được đưa đến
nhà thờ Chính Tòa, cho giáo hữu đến kính viếng và cầu
nguyện. Qua 16 giờ ngày hôm sau, tức
30-9-1960, đông đủ linh mục, giáo dân, và một số đồng
bào lương tất cả ước lượng đến gần 8000 người đưa linh cữu
cha đến nơi an nghỉ cuối cùng ở nghĩa địa các cha tại
Kontum.
Cha
Giuse mất đi, để lại cho giáo sĩ cũng như giáo dân
Kontum, nhất là con chiên cha ở Kon Kơla, và cả đến những
người ngoài công giáo, một niềm nhớ thương mến tiếc. Cha rất đơn sơ,
tính tình hiền lành dịu dàng, vui vẻ. Một cựu bạn học của cha làm chứng: trong
20 năm không bao giờ thấy ngài nặng lời, cứng cỏi với một người nào,
sống đời nghèo khó, hy sinh cho người dân tộc không phân biệt lương giáo.
Nhớ lại Lời Chúa trong Bát Phúc:
“Phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai
hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. (. . . ).
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời
là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà người ta sỉ vả,
bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn
lao” (Mt. 5, 3-4. 10-12).
Chúng
ta tin Chúa đã ban cho ngài “đất Chúa hứa”.
Ngày
17-1-1961, nhà xứ, trường học, nhà nguyện và tất cả đồ đạc
của cha ở Kon Kơla đều bị hỏa hoạn thiêu hủy. Có người
nói: “Của cha Minh đã theo ngài cả”. Những di tích vật chất của
cha đã tiêu tan, nhưng chính sự nghiệp của cha
là sự sống Thiên Chúa mà cha đã truyền sinh, đã hun
đúc trong các linh hồn, sự nghiệp ấy còn trường tồn.
(Theo hdgmvietnam.org)
=========
LINH MỤC THÉOPHILE BONNET QUÝ
(1926 – 1961)
THỪA SAI GP. KON TUM
Đây
là bổn phận của tôi phải viết những dòng chữ nầy cho anh chị em bà con thân
thuộc của vị thừa sai vừa mất đi là Cha Théophile Bonnet. Cũng xin nói lên nỗi
buồn đau sâu sắc của tôi và của những người bạn Linh mục thừa sai Kontum, và
hiệp thông với đau buồn của Quý vị, tôi xin chia sẻ những kỷ niệm được vị thừa
sai để lại cho Giám mục và các linh mục đồng nghiệp với những chi tiết thật cảm
động vào những ngày cuối đời Ngài.
Tôi
không thể trình bày sớm hơn về sự kiện đau buồn vì vùng đất chúng tôi đang sống
có nhiều biến động. Chúng tôi cần phải từ từ tìm hỏi các nhân chứng và đối
chiếu chứng từ để biết chính xác những giờ phút cuối đời Cha Théo.
MỘT
CON NGƯỜI HOẠT ĐỘNG
Tôi
xin được gọi Ngài như thế, như anh chị em và các bạn đồng sự thường cũng đã gọi
Ngài như vậy, đối với Tôi Giám mục của Ngài cũng như đối với mọi người, Ngài
vẫn là… THÉO…
Là
một chàng trai rất dễ mến, luôn tìm kiếm sự tiếp xúc rất hiệu quả, muốn trao
ban tình thân hữu và chiếm được tình cảm của mọi người. Tính tình bộc trực và thẳng
thắn, Ngài không quanh co và người ta không cần nghi ngại gì về ý nghĩ của
Ngài. Là người tình cảm, Théo rất dễ xúc động, nhưng lại là một người cứng cỏi
không ủy mị.
Sự
cô độc đè nặng, Ngài cần cuộc sống tập thể nhóm, Ngài nói và tìm kiếm điều đó.
Ngài cần có sự liên kết của tình bạn trong kinh nguyện và trong việc làm, và
Ngài luôn được tràn đầy. Thật ra, không phải lúc nào Ngài cũng mãn nguyện, vì
trong vài hoàn cảnh ngắn, Ngài đã phải sống một mình cũng như hầu hết các bạn
khác ở các làng mạc xa.
Như
thế, Ngài đã chịu đựng cách can đảm sự thiếu thốn lớn lao vật chất lẫn tinh
thần. Ngài sống khổ hạnh trong hy vọng ngày nào đó sự mong ước của Ngài được
thực hiện.
Tôi
đã thấy rỏ ràng rằng tâm hồn Ngài được nâng lên cao và chấp nhận hy sinh quảng
đại trong khi chờ đợi. Ngài thường chân thành nói với tôi về điều đó, và tôi đã
cùng với Ngài nghiên cứu khả năng thành lập nhóm thừa sai. Mỗi lần như thế,
chúng tôi cùng chấp nhận phải chờ đợi một thời gian nữa. Với quan điểm đó, Cha
Théo đã không tránh khỏi gặp phải những ý kiến phản đối, hoặc hơn nữa
thấy người chống đối. Trong khi đó, không bao giờ những khó khăn này làm cho
ngài buồn hờn lâu. Các va chạm như thế có thể xảy ra giữa anh em trong cuộc
sống này.
Thật
ra, Cha Théo không có khả năng hờn giận. Nếu Ngài bị chống đối, lòng quảng đại
thúc đẩy Ngài nhanh chóng tha thứ. Nếu Ngài là người phản đối, không bao giờ
với ý tưởng xấu, Ngài biết nói những lời hay làm một cử chỉ liên kết thân tình.
Sự dễ mến mà Ngài tỏa sáng và tạo ra xung quanh Ngài đã tràn ngập giữa những
linh mục đồng nghiệp. Trên vùng Cao nguyên này, hay ở Sài Gòn, giữa người
phương Tây hay người Việt, Cha Théo đã có mối quan hệ rộng rãi và hơn nữa những
tình bạn bền vững.
Cha
Théo, ở tuổi 35 và sau 10 năm hiện diện trong sứ vụ thừa sai Kontum, nơi mà
Ngài phụ trách nhiều địa điểm khó khăn, luôn tràn đầy sức sống thể xác lẫn tinh
thần: năng động, trách nhiệm, Ngài tích cực hoạt động không mệt mỏi.
Về
phương diện này, Ngài yêu mến sâu sắc hoạt động Tông đồ với những âu lo không
thể tránh khỏi của một người xây dựng cho vùng sâu vùng xa (1) (Broussard
constructeur).
Chín
mùi thử thách, giàu kinh nghiệm mục vụ, và thông hiểu nhiều thổ ngữ (tiếng
ĐBATTS), Ngài sẵn sàng cho công cuộc truyền giáo một cách tuyệt vời và hiệu
quả.
Théo
không phải là một người nửa vời, những hoàn cảnh về cái chết của Ngài rất sáng
tỏ về phương diện này; và cách cư xử trước những tình huống tồi tệ đã giải
thích tính cách của Ngài mà tôi vừa thoáng đề cập.
Lòng
trắc ẩn hướng dẫn bởi đức tin, và lòng quảng đại nhờ ân sủng của Ngài, và hơn
nữa theo tôi những hoàn cảnh đặc biệt của thời cuộc và của địa phương nơi các
nhà thừa sai đang sống là những nguyên nhân sâu xa dẫn tới cái chết của Ngài.
Chắc
chắn, họ có một cuộc sống đầy nguy hiểm, đời sống chứng nhân cho Thiên Chúa với
đời sống vô thần Mác-xít đối nghịch đang muốn áp đặt bằng mọi cách. Vào lúc
này, mỗi người có thể và phải chờ điều tồi tệ nhất. Tôi nói theo ngôn ngữ loài
người, bởi vì dưới con mắt đức tin, cái chết phải chăng là lối vào cuộc sống
vĩnh cữu và tử vì đạo là ân sủng của mọi ân sủng? Vậy, đối với chúng ta, cuộc
đời đã hoàn tất: chúng ta không hy vọng vào nơi thế giới và loài người, và kiếm
hy vọng của chúng ta chỉ là ở Chúa. Các vị thừa sai chấp nhận sự hy sinh: họ
rao giảng Tin mừng, Lời Chúa khi trời còn sáng và biết rằng “Ông chủ” (Chúa) có
thể gọi họ đi bất cứ lúc nào. Họ thích nói: “Với chúng tôi, không có vấn đề gì
nữa, tất cả đã rõ ràng”. Đó là giá trị mà họ sống trong bằng an và niềm vui.
Phải
chăng nói được rằng đất nước này đang, hoặc sẽ không tránh khỏi sống dưới ách
cộng sản? Không! Nhưng chiến tranh phá hoại sự khủng bố, và ít nhất có thể nói
đến sự nguy hiểm.
Théo
đã có thể đề phòng hơn hay không, khi vẫn luôn trung thành sứ vụ của mình? Tôi
tin rằng Ngài đã vâng nghe từ bên trong tiếng gọi khôn ngoan của Thiên Chúa hơn
là sự cẩn thận của loài người. Tới đây, chúng ta xin đừng suy đoán thêm…
Đường
dẫn tới hy sinh (Khúc quanh dẫn tới hiến tế): KON KƠLA
Vào
tháng 12/1960, Cha Théo còn tại Pháp, nơi mà vài tháng trước, Ngài đã trở về
khẩn cấp thăm Cha Ngài đang hấp hối. Ngài không cần phải trở lại nhiệm sở đúng
thời gian.
Tôi
thông báo cho Ngài biết là thuyên chuyển Giám đốc trường Giáo phu và bổ nhiệm
Ngài đi xứ. Tôi biết rằng quyết định này làm Ngài ngạc nhiên và cảm thấy nặng
nề: Ngài yêu mến học trò và ngôi trường của Ngài.
Ngày
25 tháng giêng năm1961,Ngài viết thư cho tôi: “Con chấp nhận không bàn cải
quyết định của Cha và con hy vọng Cha tìm thấy nơi con một linh mục đủ quảng
đại và không hề nhỏ mọn để chấp nhận nhiệm sở được Cha bổ nhiệm cho con dẩu tầm
thường hoặc khó khăn thế nào chăng nữa. Trong hoàn cảnh hiện nay, chắc chắn
không thích hợp để chúng ta quan tâm tới những tiểu tiết, mà là những việc cấp
bách chính yếu hơn nhiều.”
Ngày
14/02, tôi đã trả lời cho Ngài: “Tôi còn chưa nói rõ nơi nào tôi bổ nhiệm Cha.
Nhưng đó sẽ là một nhiệm sở hẻo lánh, thiếu thốn tất cả, đầy khó khăn và thậm
chí nguy hiểm. Một nhiệm sở mà một thừa sai đừng nghĩ sẽ yêu thích.”
Địa
sở mà tôi dành cho Ngài là Kon Kơla.
Năm
tháng trước đó, ngày 28/09/1960, Cha sở của Kon Kơla, Cha Minh, một linh mục
người Việt, đã bị cộng sản giết chết (ám sát), để lại sự tang tóc, rối loạn cho
cộng đoàn Kitô hữu rộng lớn.
Hai
tháng sau, họ quay lại đốt làng, nhà thờ, nhà xứ và tất cả đồ đạc vật dụng, hơn
một nửa số nhà dân bị đốt phá.
Để
ổn định lại tình thế của xứ đạo, nắm lại địa bàn, cần một vị thừa sai “dám làm”
(missionnaire de choc).
Khi
Cha Théo trở lại Kontum vào cuối tháng 02/1961, tôi cho Ngài biết phận sự mới
của Ngài, Ngài lấy theo vài vật dụng cần thiết và không ngoái lại phía sau.
Ngài không muốn cả những lời chào tạm biệt của học trò cũ vì sự tế nhị đối với người kế nhiệm và theo tôi cũng do sự nhạy
cảm riêng. Ngài đến vùng rừng rú, địa sở của Ngài cách Kontum 65 cây số về
hướng Bắc.
Chẳng
còn gì, kể cả một cái chòi để ở. Trong 10 tháng, từ tháng 3 đến tháng 12 năm
1961, Ngài đã thay đổi tình hình một cách ngoạn mục: sự sống thay vì hoang phế,
hi vọng thay vì khủng hoảng. Một nhà nguyện nhỏ xinh xắn bằng gỗ, tre, tranh
nứa chẳng mấy chốc được dựng lên và Chúa Giêsu Thánh Thể lại ngự giữa đoàn con
của Người. Một nhà xứ đơn sơ nhưng ở được và thích hợp cho một nhà truyền giáo
cô độc vùng xa xôi (Bruossard) ở lâu đài được dựng lên bên cạnh nhà nguyện.
Những
ưu tư vật chất biến nhanh qua vì … “Điều cần thiết cấp bách hơn nhiều”.
Điều
chính yếu đối với Ngài, đó là: giáo huấn tín hữu; chuẩn bị đối phó sự bách hại
của cộng sản, một thực tế khủng khiếp; mở rộng vương quốc Chúa bằng cách hoán
cải đông đảo lương dân ở chung quanh và cuối cùng làm chứng tá, đối lại chủ
nghĩa cộng sản rằng những người công giáo, những linh mục luôn tin vào điều họ
rao giảng và điều họ làm.
Ngài
tổ chức lại hoạt động mục vụ bằng cách thăm viếng đều đặn 14 xứ họ của Ngài,
mặc cho những cơn mưa như thác đổ, những lối đi dốc đèo trơn trợt. Ngài nắm lại
các giáo phu, yêu cầu họ rất nhiều, bởi chính Ngài cũng trả giá bằng mạng sống.
Và
công việc này của vị tông đồ, hoạt động này của người gieo giống đã hoàn tất
trong cùng thời gian mà cán bộ cộng sản cũng có hoạt động như thế. Ngài
đã không gặp họ, vì họ tránh lộ diện. Nhưng không lâu sau, họ liền khiêu khích
và đe dọa hơn.
Vào
một đêm trong tháng 9, họ thình lình đến Kon Kơla, khoảng 40 người có vũ trang,
và triệu tập tất cả dân làng; các thủ lãnh vào nhà Cha Théo và ép buộc Ngài
tham dự cuộc học tập với dân làng. Sau đó hoặc là Ngài phải đi gặp họ ở trên
đường hoặc họ đến tìm Ngài ở Kon Kơla.
Với
những người cộng sản cũng như với tất cả mọi người, những lần gặp gỡ đầu tiên,
Cha Théo tỏ ra rất thoải mái, thẳng thắn và chân thật, trong đối thoại để tìm
kiếm mối thiện cảm. Ngài nói: “Tại sao không? Đó là những linh hồn cần cứu
rỗi!” Thật ra, Ngài vượt trội hơn họ một cách dễ dàng, bằng sự bình tĩnh
và dễ chịu của Ngài, cả biện pháp biện chứng Ngài cũng hỏi hơn hẳn những con
người đáng thương này. Nhưng tôi thiết nghĩ Ngài đã làm họ ngạc nhiên hơn nữa,
đặt vấn đề cho họ khi Ngài tỏ lộ cho họ thấy con tim đầy yêu thương, không hận
thù. Đôi khi, nở một nụ cười giữa lúc họ cố gắng “tẩy não Ngài” Ngài mời họ một
điếu thuốc lá, uống một ly rượu. Ngài giữ vị trí chủ nhà đón tiếp, Ngài kiên
nhẫn lắng nghe.
Một
hôm, Ngài dẫn một cán bộ cộng sản chơi bóng chuyền với Ngài và thanh niên trong
làng. Sau một hiệp đấu, Ngài tâm sự: “nếu mọi thanh niên trên thế giới chơi
bóng như chúng ta thay vì cầm súng, bạn thấy rằng tất cả sẽ tốt đẹp hơn không?”
Giữa một vùng hẻo lánh miền Đông Dương, người thanh niên Pháp này, một linh mục
thừa sai, thủ lãnh đội du kích cộng sản, kẻ ngày mai lạnh lùng giết chết đồng
đội của mình, nhóm thanh niên “hoang dã” này, những tân tòng mới hôm qua, đã cùng
chơi với nhau; tình yêu hoặc hận thù sống mãnh liệt trong ai, những con người
này?!!
Cảnh
tượng thật mặn mà và thật cao thượng.
*
*
*
Chính
vào giai đoạn này, giữa tháng 9, Cha Théo với sự đồng ý của tôi, đã thực hiện
ước mong của mình: sống và làm việc theo nhóm với một đồng nghiệp.
Vị
thừa sai ở nhiệm sở Dak-Potrang, một vùng người Sédang khá phát triển, xa hơn
về phía Bắc vào khoảng bốn giờ đường, Cha Marcel Lantrade đã bị buộc phải rút
lui một thời gian. Thật ra, một đồn quân sự quan trọng ở vùng này và rất gần
địa sở của Cha Lantrade đã bị cộng quân tấn công từ đêm 31/08 đến 01/09. Vị
đồng nghiệp này đã xuống ở Kon Kơla và hai vị thừa sai tổ chức hoạt động mục vụ
chung.
Ngày
27/10, có một lễ hội lớn ở Kon Kơla: tôi đã được đến đó, cùng với Cha Jaeques
Dournes để kinh lý, chủ trì ban Bí tích rửa tội cho 140 tân tòng và ban Bí tích
Thêm sức cho hơn 300 tín hữu. Tất cả đã diễn ra tốt đẹp: du kích không xuất
hiện. Tối đó, vào giờ canh thức, tất cả bốn chúng tôi đều rất vui mừng. Một
người trong chúng tôi nói: “mặc kệ cộng sản… (hăng hái) tiến nhanh lên! Thật
tuyệt vời! và nếu một ngày nào đó họ lột da chúng ta, họ vẫn công nhận đó sẽ là
một chiến thẳng nữa cho chúng ta”.
Cha
Marcel Lantrade không còn là một thừa sai trẻ nữa. Ở vào tuổi 55 mà Ngài vẫn
còn ở một trong những địa điểm khó khăn nhất địa phận mà Ngài đã thành lập hai
năm trước.
Sau
10 năm phục vụ, đã đến lúc Ngài xứng đáng được nghỉ phép vào mùa xuân năm 1962
tại Pháp. Dựa trên chính gợi ý của Cha Théo, Cha Lantrade quyết định đi nghỉ không
phải vào mùa xuân nhưng vào mùa thu năm 1961 để trở lại vào mùa mưa, thời gian
khó khăn nhất. Và như thế, không lâu sau chuyến kinh lý tại Kon Kơla, Cha
Lantrade đã chào tạm biệt cộng đoàn của mình hôm trước để chuẩn bị đi nghỉ vào
tháng 11. Đó chỉ là sự vắng mặt vài tháng. Tuy nhiên, tôi không muốn để Cha
Théo một mình lúc này, hơn nữa, dự kiến công tác tông đồ chắc chắn phát triển ở
trong vùng, ngày 04/12 tôi bổ nhiệm Cha Christian Léoni, một thừa sai trẻ đến
Kontum năm 1959, làm Cha phó chánh xứ Kon
Kơla. Ngày 08/12, Cha Théo về Kontum, tôi đã thông báo cho Ngài biết, tin rằng
sẽ mang lại cho Ngài niềm vui. Và như thế đến ngày 15/12, Cha Léoni sẽ lên nhận
nhiệm sở. Cha Léoni không đến đó, và tôi đã quyết định cho Cha đi nơi khác, vì
ngày 13/12/1961, Cha Théo cha sở của Ngài, đã ngã xuống…
Bây
giờ, chúng ta sẽ theo Cha Théo từng ngày:
*
Ngày 08 tháng 12 năm 1961:
Cha
Théo về Kontum để tham dự lễ khấn và nhập dòng của các Soeur Dòng Ảnh Phép Lạ,
một hội dòng Công giáo cấp giáo phận dành riêng cho thiếu nữ người Thượng mà ở
đó Cha Théo có đỡ đầu cho vài em.
Trước
khi về lại địa sở, Cha Théo đến chào tôi và tôi có dặn dò Ngài cần cẩn thận. Du
kích đã có lần nói với Ngài đừng qua lại bằng xe hơi trên 20km đường cách đường
chính tới Kon Kơla, nếu không sẽ có thể có “sai lầm”. Trong tháng 10, khi đi
kinh lý, chính tôi đã phải đi bộ trên con đường này thế mà tôi biết sau một
thời gian tránh né, Théo của tôi đã đi bằng xe hơi Ngài nói với tôi:
“Thưa Đức Cha! Nếu họ muốn giết con, cho dù con đi bộ hay đi xe, họ cũng
sẽ biết cách tìm ra con… Đó là bọn giả hình. Và con đã quyết định tiếp tục công
việc của con. Coi như không có Việt minh vậy và con còn đi thăm các làng của
con bằng bất cứ giá nào”. Sau buổi trưa, Ngài trở về Kon Kơla.
*
Ngày 9-10-11 tháng 12 năm 1961:
Tôi
đang sao lại nguyên văn tờ giấy tìm thấy trong hồ sơ của Cha Théo sau cái chết
của Ngài. Chắc chắn nó được gởi cho tôi. Đó là những dòng chữ cuối cùng của
Ngài đề ngày 11/12 tại Kon Kơla. “Deo Gratias! Tạ ơn Chúa! Con vẫn sống và tự
do nhưng không phải không lo âu. Con tin rằng những người của con sợ hãi hơn
con. Đó là tin đến từ hai ngày nay, một người trong làng đi với họ đã phao tin,
họ muốn tiêu diệt con, con là vật cản lớn nhất đối với họ, khi con bị giết,
hoạt động của họ sẽ dễ dàng hơn trong vùng này”.
“Từ
ngày hôm qua, con bắt đầu cảm thấy có điều gì không tốt, sau khi giải tội ở Kon
Turia (con sẽ nói lại với Cha việc này sau), khoảng 17 giờ con đi xuống Kon Du,
ban chức việc (phái đoàn) của Kon Kơla đợi con ở đó và họ khuyên con trốn tránh
về Kon Hơring vì người ta nói có khoảng hai mươi Việt cộng ở Dak Hơring hành
quân về Kon Kơla”.
“Con
dâng thánh lễ và nhanh chóng trước khi trời tối, con trở về nhà bằng xe hơi.
Con cảm thấy hơi mệt mỏi… chắc chắn, để thêm can đảm, ngày đó con đã làm việc gấp
đôi: 3 thánh lễ, 3 bài giảng, giải tội cho 130 người, thăm làng Dak Rouang và
Kon Turia, rồi Kon Du… Xin chào!”.
“Tối
hôm qua, không như mọi khi, số thanh niên đến ngủ nhà con được tăng cường đông
hơn, nhưng chúng con chẳng ngủ ngon được, tới nửa đêm chó bắt đầu sủa gắt và
rất lâu… Chúng con ở yên tại chỗ. Không có báo động gì trong đêm”.
“Sáu
giờ sáng, khi thức dậy, chó vẫn còn sủa, chúng con nghe tiếng chân người rồi
giọng nói chung quanh nhà, con đã hiểu. Để cho an tâm, con hỏi: ‘Ai đó?’-‘Chính
họ rồi’- Họ đang bàn kế hành động, rồi họ gọi mọi người ra.”
“Cha
ơi! Đừng ra!” các chàng của con nói. Con mặc ấm nhất có thể trong trường hợp
mà…
Rồi
đợi một lúc, con mở của, nhảy qua hàng rào, vào trong nhà nguyện. Trong lúc đó,
mọi người tụ tập lại và khi con nghe ông “cán bộ” bắt đầu tuyên truyền, con ra
ngoài và đi tới chỗ ông ta. Con chào họ, không ai trả lời. Rồi một cách lịch
sự, con xin họ cho phép ít nhất là phụ nữ và trẻ em tham dự thánh lễ con sắp
dâng. “Không!- ông cán bộ trả lời một cách hung dữ- bây giờ họ phải dự buổi
tuyên truyền giáo dục của tôi.” Con nài nĩ lần nữa, họ tuyên bố tôn trọng tự do
tín ngưỡng; ông ta bảo con: “Cút đi!- ông nói với một giọng thù hằn. Này, sau
khi tuyên truyền cho họ xong, chúng tôi cũng sẽ giáo huấn ông. Chúng tôi sẽ giữ
ông trong hai giờ”.
“Trong
khi ông ta càng bực tức, con càng nhún nhường. ‘ Vâng! Vâng! xin đừng giận!’-
Con im lặng rút lui. Con đọc kinh nhật tụng rồi, đi qua đi lại hàng trăm bước,
không xa họ, con dâng kinh sáng, tụng ca và một phần phụng vụ các giờ kinh.”
“Thấy
ông ta tiếp tục ba hoa, và thái độ của ông ta đối với con không bình thường,
con muốn bảo đảm được dâng lễ dẫu xảy ra thế nào, và con đã đi làm lễ một
mình”.
“Khi
con ra khỏi nhà nguyện, họ ăn sáng. Con uống cà phê và con không phải đợi chờ lâu.
Bây giờ những gì xảy ra tiếp theo, chúng ta dựa vào các nhân chứng.”
Thật
thế, Cha Théo không phải đợi lâu, gần như lập tức, ba cán bộ cộng sản vào trong
nhà xứ. Chính những người này vừa mới bảo dân làng rằng Cha sở không phải là
linh mục, nhưng là một tên đại úy, một tên gián điệp, một tên tay sai của
“Mỹ-Diệm” nghĩa là sĩ quan của quân đội “Mỹ-Diệm”. Một cáo giác trầm trọng, một
lời đe dọa nặng nề từ miệng họ, bởi vì Mỹ-Diệm là kẻ thù của họ. Họ còn nói
không thể cho Cha đi lại tự do.
Như
thế điều tên “mật thám” nói, mà anh ta là một dấu hỏi trong tờ giấy của Cha, đã
được xác định, cộng sản muốn vô hiệu hóa hoặc loại bỏ Cha. Tên mật thám này
theo tôi, là người làng […] do cộng sản hướng dẫn nhưng trước sự đe dọa nặng nệ
đối với Cha Théo được tất cả các dân làng rất yêu mến, anh ta đã chống lại theo
ý riêng mình. Anh ta đã theo dõi chính những kẻ muốn anh ta theo dõi Cha. Tôi
giải thích điểm này như thế, điều này vẫn còn bí ẩn, nhưng chúng ta sẽ được
sáng tỏ một ngày nào đó.
Các
giáo dân rất lo lắng khi thấy ba cán bộ đi vào nhà Cha và chỉ có họ ở lại với
Cha. Họ nghĩ Ngài bị bắt giữ ngay lập tức. Họ tập trung thành đám đông chung
quanh nhà và sẵn sàng can thiệp. Nhưng không có gì xảy ra. Và giáo dân tin rằng
chính thái độ của họ đã làm cho cán bộ phải e sợ… có thể lắm. Cuối cùng họ ra
và cả nhóm bỏ đi, Cha vẫn bình tĩnh, Ngài kể lại cho giáo dân cuộc đối thoại
như sau: “Họ bảo tôi: không được đi thăm các làng nữa – Vậy tôi làm gì ở đây?
Ông hãy nghỉ đi! – Tôi không thể: tôi phải giảng đạo – Ai đã xây nhà thờ này? –
Những người Công giáo ở làng này- Ai đã ra lệnh cho họ làm?- Thiên Chúa, vì họ
là người Công giáo- Chúa à? Làm gì có Chúa- Ai đã tạo dựng trời và đất?- Không
ai cả, chúng tự có- Vậy thì nhà thờ Kon Kơla cũng tự có thôi- Họ chẳng biết trả
lời thế nào nữa-Họ cười- Cha cũng nói với giáo dân. Cuối cùng, họ cũng cho phép
tôi qua lại”.
Théo
có hiểu rằng sự cho phép này thực ra là bản án xử tử Ngài không? Người cộng sản
không dung thứ những cá nhân dũng mãnh, những cá nhân chói sáng và cản trở hành
động của họ, những cá nhân không thấm nhuần các bài học của họ và không khuất
phục sự đe dọa của họ. Và chính Ngài, Cha Théo đã không chấp nhận chịu đựng một
cách thụ động, phải hành động giữa ban ngày, chứng tá tinh tuyền. Sẽ không tốt
đẹp nếu hành động một cách khác. Ngài đã được phúc tử vì đạo.
*
Thứ hai, ngày 11/12: Cha ở lại làng Kon Kơla, Ngài viết những lời đã nêu trên.
*
Thứ ba, ngày 12/12: Cha Théo báo rằng theo chương trình đã định, Ngài sẽ đến
thăm ba làng. Giáo dân tìm cách can ngăn Ngài. Cha lắng nghe họ một lúc, cuối
cùng Ngài nói với họ: “Vâng theo Thánh ý Chúa!… Vậy thì tôi đi một mình”.
Nhưng
rồi có 15 giáo dân Thượng quyết định đi với Ngài. Đương nhiên không ai mang vũ
khí.
Trong
ngày hôm đó, buổi trưa Ngài làm lễ ở làng Wang Kleng, 15 giờ, Ngài ra đi, lúc
17 giờ, dâng thánh lễ thứ hai ở Kon HơDro. Lúc gần tối, Ngài trở về làng Ngô
ReNgê, giáo dân đón Ngài trên đường: “Cha ơi! Đừng vào làng, cộng sản đang ở
đó”.
Nhưng
Cha vẫn cứ vào. Chung quanh làng, khoảng 20 người vũ trang đang chốt chặn. Ba
cán bộ đang tuyên truyền cho dân làng. Không ai nói tới Ngài, Cha vào nhà
nguyện lợp tranh, Ngài đi ngủ.
*
Thứ tư, ngày 13/12: Sáng sớm, giáo dân tụ họp ở nhà nguyện, Cha giải tội cho họ
rồi dâng thánh lễ. Sau đó, Ngài nhanh chóng sắp xếp công việc. Ngài bảo: “Nhanh
lên! Chúng ta đi thôi, Việt cộng muốn giết tôi”.
Thật
ra trước đó một lúc, ông biện cả trong làng, biết được ý định của du kích, đã
đến bí mật nói với Ngài: ‘ Cha ơi! nguy rồi, Không đi về trên đường được, chúng
con sẽ đưa Cha đi đường vòng ngang qua rừng’. Nhưng một lần nữa, Ngài lại từ
chối. Ngài ăn nửa chén cơm, và vội bước lên đường. Những giáo dân tháp tùng
cũng vội vã. Hai thanh niên theo kịp Ngài và tự nguyện đi trước, cách vài bước.
Những người khác theo sau một quãng. Đi xa chừng 500 mét, có một con suối nhỏ,
Ngài nhảy qua rồi lên dốc, Ngài bước nhanh gần như chạy.
Một
tràng tiểu liên vang lên, Cha ngã xuống, bàn tay siết chặt tràng hạt. Ngài bị
bắn gần như sát họng súng ở cạnh sườn trái, về phía sau một chút. Ngài bị ba
vết thương, mà một đã gây chết người, một viên đạn trúng tim. Ngài thở chừng
1-2 phút nữa rồi trút hơi thở.
Giáo
dân vội chạy lại, vây quanh bên nhau, hy vọng còn có thể bảo vệ Ngài, nhưng họ
thấy đã hết: “Lạy Cha! Cha ơi!” rồi quay về phía rừng, họ gào lên: “Bắn luôn chúng
tôi đi!” Nhưng không tiếng trả lời, và họ chẳng thấy một ai cả. Hai giáo dân
chạy về làng Ngô Re Ngê để báo nhưng du kích đã ở đó cười nhạo nói về Cha. Một
lúc sau, họ bắn vài phát chỉ thiên vui vẻ bỏ đi. Những người khác cùng đi với
Ngài vội vàng đặt xác Ngài trong một cái mền và khiêng Ngài về Kon Kơla. Họ đặt
Ngài trong nhà nguyện và giáo dân đến đọc kinh và than khóc suốt cả ngày.
Cũng
trong ngày, một chục Việt cộng đến làng Kon Du. Dân làng rất sợ hãi, nhưng các
cán bộ bảo họ: “Thằng ‘Mỹ – Diệm’ đã chết rồi. Đừng có sợ! Đối với bà con,
người ta không làm gì đâu”. Giáo dân gởi vài người đi báo biến cố cho Cha
Brice, cha sở Kon Hơring.
Xác
Ngài được đưa về Kontum vào chiều thứ năm ngày 14/12. Lễ an táng được tổ chức
vào sáng thứ sáu ngày 15/12/1961. Rất đông giáo dân và lương dân, kinh và
thượng, trầm mặc, xúc động, đến kính viếng lần cuối cùng người mà trong thâm
tâm họ xem như một đấng tử vì đạo.
Thêm
một vị nữa trên đất nước Việt Nam đã có rất nhiều vị thánh tử đạo.
**
Ở lại nhiệm sở: Trong nghĩa trang nhỏ của địa phận thừa sai, nơi an nghỉ của
những vị tiên phong xây dựng (sáng lập) vùng Truyền giáo Dân tộc Bahnars “hoang
dã”, Cha Théophile bây giờ được an nghỉ, ngày làm việc của Ngài đã hoàn tất. Và
nghĩa trang bé nhỏ này, nơi mà chúng ta yêu mến, không buồn tẻ. Nó thật thân
thương, nó biểu tượng cả bình an, hy vọng và niềm vui và rất đỗi anh hùng!
Trong
quảng thời gian 15 tháng trong một địa sở vị, thừa sai thứ hai đã hy sinh làm
chứng nhân bằng máu của mình. Đức Giêsu, bằng lời Ngài và sau đó là gương của
Ngài, đã cho ta thấy tiêu chuẩn của một vị mục tử chân chính và nhân lành: “Mục
tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên,… người làm thuê khi thấy sói
đến thì bỏ chạy” (Ga 10,11-12).
Cha
Théo cũng như người tiền nhiệm, đã học biết điều này. Cả hai trong truyền thống
hàng trăm năm của giáo hội Việt Nam nơi sản sinh và làm trỗi dậy những cộng
đoàn tín hữu đáng kính phục, đã hòa trộn máu huynh đệ của những Linh mục Thừa
sai Pháp-Việt, dẫu chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, hiện nay đã làm cho bao người
chống đối nhau, Chúa Giêsu Kitô vẫn dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau, như thầy
đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
“Chứng
từ đơn giản là sự hiện diện của mục tử kể cả lúc bị tước bỏ tự do, chính sự
hiện diện của người là một sự trợ lực quý giá cho tín hữu và đau khổ là nguồn
mạch ân sủng của mầu nhiệm Thánh Thể… Thật sai lầm khi nói rằng dưới một chế độ
nào đó, sự hiện diện của Linh mục là vô ích: lời cầu nguyện, sự đau khổ, cái
chết không vô ích cho tín hữu”.
Đó
là thông điệp mà ĐGM S.EX. Dooley, đại diện Tòa thánh tại Đông Dương đã gởi cho
hàng giáo phẩm ngày 25/08/1954, ngày Việt minh tiến vào Hà Nội miền Bắc Việt
nam.
Chính
cùng một chỉ thị mà tôi đã nhắc lại cho các Linh mục của tôi ngày 15/12/1961,
trong dự đoán tình hình xấu hơn ở miền Nam Việt Nam.
“Đó
là nguyên tắc cơ bản của tất cả các Linh mục phục vụ các linh hồn: Cha sở,
chánh phó xứ, giám đốc phải ở lại nhiệm sở của mình”.
Cha
Théophile của chúng ta, vào giờ được chọn bởi Thiên Chúa, duy mình Ngài là Chủ
sự sống và sự chết, đã tuyệt vời mang lại chứng tá của lòng trung thành trong
sứ mạng Thừa sai, đồng thời là chứng tá lớn nhất của tình yêu tỏ lộ: HIẾN MẠNG
SỐNG VÌ THA NHÂN…
Đức cha PAUL SEITZ
Giám
Mục Kontum
(Theo
PATER Gp Kon Tum, số tháng 03 và 04/2012)
Nguồn
bài viết: Giuse Lê Minh Sơn.