Thứ Bảy, 25 tháng 11, 2023

MỪNG KÍNH CÁC CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TẠI VIỆT NAM - 24/11.

 MỪNG KÍNH CÁC CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM - 24/11.

Trong lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã làm chứng đức tin Kitô Giáo, trong số đó có 118 Thánh Tử đạo, với 117 vị được Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong Thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988 và Á Thánh An-rê Phú Yên, phong Chân phước ngày 5 tháng 3 năm 2000.
Trong số các vị tử đạo được Giáo hội Công giáo tuyên thánh và tôn kính, có 117 vị Thánh tử đạo tại Việt Nam. Giai đoạn lịch sử thời 117 thánh Tử đạo Việt Nam kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị thánh tử đạo đầu tiên là Phanxicô Federich Tế và Matthêu Leciniana Đậu (tử đạo năm 1745) đến vị cuối cùng là Phêrô Phan Hữu Đa (tử đạo năm 1862), qua các triều đại vua Lê - chúa Trịnh, Tây Sơn và triều Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức).
Xét về thành phần tử đạo, ngoài các giám mục, linh mục, còn có các giáo dân thuộc mọi tầng lớp như quan trường có thánh Micae Hồ Đình Hy, quan án có thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm, quân ngũ có những cai đội hoặc chưởng vệ, xuống đến những binh sĩ tầm thường, hương chức có những chánh tổng, lý trưởng. Xét về nghề nghiệp ta thấy có lang y, thương gia, có thợ may, thợ dệt, thợ mộc, cả dân chài, nhưng đông đảo nhất vẫn là giới nông dân.
Theo ước lượng, cho tới cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam đã có khoảng 100.000 người bỏ mình cho đức tin Công giáo. Trong con số rất lớn đó đã có 117 vị đượcTòa thánh chấp nhận phong chân phước qua 4 lần: Năm 1900: dưới thời Giáo hoàng Lêo XIII 64 vị; Năm 1906: thời Giáo hoàng Piô X 8 vị; Năm 1909: thời Giáo hoàng Piô X 20 vị; Năm 1951: thời Giáo hoàng Piô XII 25 vị.
Chia ra như sau: 11 vị người Tây Ban Nha: 6 giám mục, 5 linh mục; 10 vị người Pháp: 2 giám mục, 8 linh mục; 96 vị người Việt Nam: 37 linh mục (23 Bắc, 10 Trung, 1 Nam); 16 thầy giảng (14 Bắc, 1 Trung, 1 Nam); 1 chủng sinh (Trung) và 42 giáo dân (31 người ở miền Bắc, trong đó có 1 phụ nữ; 8 ở miền Trung; 3 ở miền Nam) thuộc các thành phần xã hội như quan án, cai đội, viên chức, y sĩ, binh lính, nông dân, ngư dân...
Nếu theo thời điểm “tử vì đạo”: 2 vị dưới thời Trịnh Doanh (1740-1767); 2 vị dưới thời Trịnh Sâm (1767-1782); 2 vị dưới thời Cảnh Thịnh (1782-1802); 58 vị dưới thời Minh Mạng (1820-1840); 3 vị dưới thời Thiệu Trị (1840-1847); 50 vị dưới thời Tự Đức (1847-1883).
Hồ sơ xin phong thánh còn chi tiết chia theo các hình thức tử hình khác nhau của những người đã hy sinh để làm chứng cho Chúa: 75 chém đầu (trảm quyết), 22 án xử giảo (thắt cổ), 9 án tra tấn chết trong tù, 6 vị bị hỏa thiêu, 5 vị bị lăng trì hay tùng xẻo (xẻo từng miếng thịt cho cái chết diễn ra dần dần)...
Phân loại theo nguyên quán: quê Nam Định 19 vị; quê Thái Bình 8 vị; quê Bình Trị Thiên - Huế 7 vị; quê Nam Bộ 4 vị; quê nơi khác: Thanh Hóa, Hưng Yên, Bắc Giang, Bình Định...
Phân loại theo nơi chết: 42 người chết tại Nam Định; 56 người chết tại Thái Bình; 7 người chết tại Huế; 4 người chết tại Bắc Ninh; 4 người chết tại Nam Kỳ; 4 người chết không rõ tại đâu.
Qua những tổng hợp trên, có thể thấy các thánh tử đạo ở Việt Nam có 16 vị là người nước ngoài. Về thời điểm, chủ yếu các thánh tử vì đạo vào thời Minh Mạng và Tự Đức triều Nguyễn; về mặt địa lý, các vị này chủ yếu chết ở miền Bắc Việt Nam; về thành phần tử đạo, giáo dân và linh mục vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất, còn về giới tính chỉ có 1/117 vị là phụ nữ (thánh Anê Lê Thị Thành).
Vị thánh tử đạo cao tuổi nhất: 84 tuổi – Micae Vũ Ba Loan (1756-1840).
Vị thánh tử đạo nhỏ tuổi nhất: 19 tuổi – Giuse Phạm Quang Túc (1843-1862), Chân phước Anrê Phú Yên (1625 hay 1626-1644).
(Sưu tầm)
Có thể là hình ảnh về 1 người
Tất cả cảm xúc:
Bạn, Uyên Nguyễn Thị Thảo, Tran Hai và 22 người khác
Nguồn bài viết: Lê Minh Sơn.

Thứ Tư, 8 tháng 11, 2023

PHÁT BIỂU NGÀY KHÁNH THÀNH BIA TRI ÂN NGÀI ALEXANDRE DE RHODES, ISFHAN, IRAN, 5/11/2018.

 PHÁT BIỂU NGÀY KHÁNH THÀNH BIA TRI ÂN NGÀI ALEXANDRE DE RHODES, ISFHAN, IRAN, 5/11/2018

GS Nguyễn Đăng Hưng
Viện Trưởng Viện Vinh Danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn Tiếng Việt, Đại học Duy Tân Đà Nẵng
Kính thưa các vị khách quý,
Basalame khanoomha va agkayan
Thưa các bạn
Vẫn biết lúc ban đầu các giáo sỹ cơ đốc chỉ muốn tạo dựng một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo, nhưng tính cách nghiêm túc và khoa học của công trình của họ đã cho ra đời một sản phẩm văn hóa tuyệt vời giúp cho người Việt có cơ hội nhanh chóng hòa nhập với thế giới văn minh, giúp các trẻ em Việt Nam có thể nhanh chóng biết đọc và biết viết, thoát ra những rối rắm của cách viết tượng hình vay mượn từ Trung Hoa.
Các chí sỹ yêu nước của các phong trào canh tân đất nước như Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục… đã sớm ý thức được lợi thế này và đã chọn chữ quốc ngữ làm phương tiện truyền bá những tư tưởng dân chủ tiến bộ, mưu cầu giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp.
Sự ra đời và phổ biến của chữ quốc ngữ có công sức của nhiều người: Các giáo sỹ Bồ Đào Nha, Pháp, Ý, các cộng tác viên người Việt, các học giả người Việt: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục…, các chí sỹ của phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục: Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Lương văn Can, Nguyễn Quyền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng… các thành viên chủ chốt của Hội Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ: Nguyễn Văn Tố, Hoàng Xuân Hãn, Bùi Kỷ, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hữu Đang.... Họ đã là những nhân tố tích cực cho việc mở mang dân trí, phổ biến các tư tưởng tiến bộ cho toàn dân dẫn đến độc lập dân tộc và thông nhất đất nước Việt Nam.
Nhưng công đầu có lẽ thuộc về cha Alexandre de Rhodes.
Năm 1651 sau khi bổ sung và hoàn thiện các công trình tiếng Việt khởi đầu từ các công trình của các giáo sỹ Bồ Đào Nha (Francisco De Pina , Gaspar De Amaral, Antonio Barbosa) ngài cho ra đời tại Roma, quyển tự điển Từ điển Việt–Bồ–La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum), công bố khoa học đầu tiên về Tiếng Việt và cách viết dùng ký tự La Tinh.
Đây là cả một nỗ lực, khổ luyện cá nhân hiếm có. Cha ADR đã ghi lại:
"Khi tôi vừa đến đàng trong VN và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế. Thêm vào đó, tôi thấy hai cha Emmanuel Fernandez và Buzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. .."
Cha ADR đã góp phần to lớn, giúp cho dân tộc Việt Nam hòa nhập với thế giới văn minh trước hơn 350 năm so với các nước khác tại Á Châu!
Đây cũng là thành quả giao lưu văn hóa Âu-Á trong sáng và trường tồn vào bậc nhất của nhân loại. Có công trình giao lưu văn hóa nào ngay thế kỷ 17 mà đã có hợp tác của đông đảo các quốc tịch: Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha, Nhật, Trung Hoa, Pháp và Việt Nam... đế sáng tạo, hình thành và đạt kết quả mỹ mãn như chữ Quốc Ngữ mà ta có ngày nay?
Hôm nay, chúng tôi, những phó thường dân từ Việt Nam xa xôi, là hướng dẫn viên du lịch, là chuyên gia nhiếp ảnh, là nhà báo, nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, giáo sư đại học, đến từ Nam, Trung, Bắc, có người định cư ở nước ngoài hồi hương, chúng tôi vượt không gian trên 6000 km tụ tập về đây, nhân ngày giỗ thứ 358 của ngài.
Chúng tôi kính cẩn đặt bia tri ân, với tư cách là người Việt Nam, nói tiếng Việt và sử dụng mỗi ngày Chữ Quốc Ngữ.
Chúng tôi ghi rõ lòng biết ơn của chúng tôi lên bia đá:
“Tri ân Cha Alexandre de Rhodes đã đóng góp to lớn trong việc tạo tác Chữ Quốc Ngữ - chữ Việt viết theo ký tự Latinh” (We are very grateful to Father Alexandre de Rhodes who contributed greatly to the creation of Chữ Quốc Ngữ, Vietnamese script using the Latin alphabet).
Chúng tôi cũng mang sang đây một tấm bia ngắn, cho khắc in chân dung ngài và hình ảnh cuốn từ điển trứ danh của ngài.
Chúng tôi tin tưởng rằng từ nay, tấm bia đá lấy từ Quảng Nam này, nơi ngài lần đầu đặt chân đến học tiếng Việt, sẽ mãi mãi đứng dưới chân ngài, đem đến cho ngài hơi ấm của lòng biết ơn sâu sắc của người Việt chúng tôi!
Thật vậy, Chữ Quốc Ngữ đã quyện cùng tiếng Việt, thấm vào hồn người Việt và trong giai đoạn khó khăn đầy bất trắc hôm nay của đất nước, chúng tôi tin tưởng không gì có thể lay chuyển được được là
Vinh danh Chữ Quốc Ngữ chính là bảo tồn tiếng Việt, chính là bảo vệ đất nước Việt Nam!
Xin cám ơn quý vị…
Sepas gozaram
GS Nguyễn Đăng Hưng
Viện Trưởng Viện Vinh Danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn Tiếng Việt
Đại học Duy Tân Đà Nẵng
Nguồn (internet)