Dấu Tích Xưa - Ải Nam Quan – Nay Còn Đâu!
Đại Thi hào Nguyễn Du khi đi sứ Trung Quốc (vào ngày 06.04.Quý Dậu - tức 06. 5.1813, và về ngày 29.3 Giáp Tuất - tức là ngày 18. 5.1814) đã qua Ải Nam Quan và cảm tác bài thơ Trấn Nam Quan trong Bắc Hành Tạp Lục. Bắc Hành Tạp Lục gồm 110 đề mục và vì có nhiều đề mục thi sĩ Nguyễn Du sáng tác hai bài thơ, nên có tất cả 120 bài thơ chữ Nho, trong đó có hai bài Nguyễn Du viết về tâm sự của mình khi tiến qua ải Nam Quan để vào đất Trung Hoa. Đó là bài "Nam Quan đạo trung" và "Trấn Nam Quan". Riêng bài "Trấn Nam Quan" nói rõ biên giới giữa nước ta và Trung Hoa nằm ngay nơi mặt ải. Nguyên văn bài thơ như sau :
Trấn Nam Quan
Lý Trần cựu sự yểu nan tầm,
Tam bách niên lai trực đáo câm.
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện,
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm.
Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ,
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm..
Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu,
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm.
(Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ)
Lý Trần việc cũ dấu phai mờ
Năm đã ba trăm kể đến giờ
Muôn núi ải quan nằm chính giữa
Một thành Hoa-Việt vạch đôi bờ
Trời đất mới biết ơn sao nặng
Đất hẹp xui nên chuyện hóa ngờ
Mây biếc quay nhìn nơi cửa khuyết
Nhạc Thiều văng vẳng tiếng xa đưa
Qua bài thơ này đã chứng tỏ Trấn Nam Quan đã thuộc nhà Lý -Trần và nó có cách đó khoảng 300 năm tức là khoảng năm 1513. Nghĩa là Trấn Nam Quan có trước thời Gia Tĩnh Triều Minh (1522-1560). Ngoài ra nó còn cho ta biết, bức tường thành chính là biên giới phân cách Việt -Trung vào thời đó.
Lịch Sử Ải Nam Quan theo các thời kỳ :
Ải Nam Quan là nơi đã từng diễn ra và chứng kiến nhiều cảnh tang thương và hùng tráng trong suốt thời gian của Việt sử nghĩa là từ thời nước ta lập quốc cho tới nay.
Năm 40 Tây Lịch, Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán, Nam Quan đã là cửa ngõ xâm lược của viên tướng Mã Viện. Và năm đó, Ải Nam Quan cũng đánh dấu nhiều chiến công huy hoàng của dân tộc Việt bất khuất như Thái thú Tô Định bị nghĩa quân của Hai Bà Trưng đánh đuổi phải bỏ chạy về Tàu qua ngả Nam Quan. Năm 981 vua Lê Đại Hành đã chém đầu Hầu Nhân Bảo và đánh đuổi tàn quân nhà Tống ở cửa Nam Quan.
Đời nhà Lý, năm 1060, quân xâm lược nhà Tống lại bị chận đánh ở Nam Quan và Lạng Châu tức Lạng Sơn. Bấy giờ Châu mục Thân Thiệu Thái từng đánh sang Châu Ung bên Trung Quốc bắt sống Chỉ huy sứ Dương Bảo Tài, chưa kể sau đó là các chiến công phá Tống oanh liệt của Lý Thường Kiệt nữa.
Năm 1285, Đời nhà Trần, năm 1285 Trấn Nam Vương Thoát Hoan phải nhục nhã chui vào ống đồng trốn chạy về Tàu qua ải Pha Lũy tức Ải Nam Quan.
Năm 1427, Liễu Thăng bị phục binh của nghĩa quân Bình Định Vương Lê Lợi chém chết ở Đảo Mã Pha (Gò Té Ngựa) thuộc ải Chi Lăng, ở về phía nam cửa Nam Quan khoảng 50 km và tàn quân Minh cũng phải theo cửa Nam Quan mà trốn chạy về nước.
Thời Lê Thánh Tông (1460 -1497), nhà vua cho tu bổ lại Đoàn Thành (Lạng Sơn), xây dựng lại các ải lớn, đặt 4 trạm dịch trên đất Lạng Sơn : Pha Lũy, Mai Pha, Nhân Lý, Chi Lăng. Quy định của triều đình là : chỉ có sứ bộ mới được đi qua ải Pha Lũy (sau này là Ải Nam Quan), còn những người bị tù tội, dân buôn bán trao đổi đều đi theo đường ải Du Thôn. Trên núi Kháo Sơn cũng có hai con đường : một cho sứ bộ, và một cho dân buôn. Triều đình cũng quy định : các tổng quản, tuyên úy trị nhậm ở phiên lộ cách kinh thành 200 dặm, phải luôn luôn đẩy mạnh việc vũ vệ. Năm 1460, nhà vua hạ lệnh : "Những người coi giữ biên giới phải giữ quan ải cẩn thận, không được thông đồng với người nước ngoài". Trong bộ luật Hồng Đức, chương "Cấm Vệ" có điều "Những người bán ruộng đất, bờ cõi cho người nước ngoài thì bị xử chém". Điều 243 nêu rõ : Các tướng sĩ phòng giữ nơi quan ải nếu không phòng bị cẩn thận, dò la không đích thực để quân giặc đến bất ngờ đánh úp thì bị xử tội lưu hay tử".
Về cửa hay ải Nam Quan, theo Phương Đình Dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu đời Hậu Lê trở về trước gọi là cửa Pha Lũy, ở về phía bắc châu Văn Uyên, trấn Lạng Sơn. Từ châu Bằng Tường tỉnh Quảng-Tây bên Trung Quốc muốn vào nước An Nam phải qua cửa quan này. Theo Cương mục và Lam Sơn Thực Lục, cửa Pha Lũy chính là cửa Nam Quan ở xã Đồng Đăng thuộc huyện Văn Uyên tỉnh Lạng-Sơn. Từ đời Lê Trung Hưng, người Tàu gọi cửa Pha Lũy là Trấn Nam Quan; còn ta thì quen gọi là cửa hay Ải Nam Quan.
Ải Nam Quan thuộc Tàu vào thời vua Gia Tĩnh. Mạc Đăng Dung do quá ươn hèn nên đã bị Tàu chiếm lấy cái Ải Nam Quan này sau khi làm lễ dâng biểu mất đất đai cho nhà Minh bên Tàu. Theo đoạn sử tả lại sự nhục nhã của phái đoàn Mạc Đăng Dung thì lúc đó Tàu chưa có làm chủ Ải Nam Quan gì cả. Quan quân Tàu còn phải đóng cách Ải Nam Quan 1 khoảng ngắn gọi là Mạc Phủ.
Thời nhà Minh xâm lăng đô hộ nước ta, năm 1406, ông Nguyễn Trãi theo cha là Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Tàu cùng cha con Hồ Quý Ly. Tại ải Nam Quan, Nguyễn Trãi đã vâng nghe theo lời cha ghi nhớ hận mất nước và sau này phò Bình Định Vương Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, thu hồi lại nền tự chủ cho nước nhà.
Năm 1789 -Mùa Xuân Năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung cũng từng đánh cho tan tác hàng vạn quân Tàu cùng với tổng đốc Tôn Sĩ Nghị khi sang giúp vua Lê Chiêu Thống. Kết quả, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, phải bỏ chạy trốn qua Ải Nam Quan.
Năm 1802, Vua Gia Long thống nhất sơn hà. Theo Đại Nam Thực lục, sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long vẫn theo lệ cũ của đời nhà Lê cho thi hành những thủ tục điều hành công vụ ở cửa Du Thôn. Đồng thời, vua Gia Long cũng sai Trịnh Hoài Đức vẽ lại bản đồ thống nhất Việt Nam. Năm 1806, Trịnh Hoài Đức hoàn thành công việc và trình vua Gia Long với bản đồ Việt Nam trong đó có ải Nam Quan.
Tới đời nhà Thanh gần đây, trong bài Trùng tu Nam Quan Ký của Tuần phủ Lý Công Phất còn nhắc tới việc này như sau : Nam Quan trông sang Giao Chỉ thật là hiểm yếu, ở đó có cột đồng Mã Viện.
Đến ngày mồng 8 tháng giêng năm Ất Dậu (1885) thì thiếu tướng De Négrier lên đến cửa Nam Quan, truyền phá ải quan, rồi trở về Lạng Sơn.
Thời Pháp thuộc, người Pháp gọi cửa Nam Quan là Porte de Chine, nghĩa là cửa ngõ Trung Quốc. Tên này được dùng cho đến năm 1945. Năm 1931, Tờ báo National Geographic có chụp hình Ải Nam Quan từ bên phía phải của nó.
Trải qua những trận chiến Pháp Hoa ở vùng biên giới Lạng Sơn, bức tường thành và cửa ngăn cách biên giới hai nước nay không còn nữa. Còn bưu thiếp của Collection de L'Union Commerciale Indochinoise vào năm 1910 cho thấy một cửa Nam Quan sát chân núi khá cao; ngoài cửa chính có lính canh gác và còn có một cửa phụ ở bên cạnh và phía sau cửa ải có một tòa nhà lầu ở lưng chừng núi. Cũng vì chiến tranh Pháp và Việt Nam, cửa Nam Quan này nay không còn.
Copyright by Hoài Nguyễn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét