Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

THA THỨ LÀ MỘT MÓN QUÀ

CHUYỆN GIÁO DỤC NHÂN BẢN
---------------------------------
GIÁ TRỊ và SỨC MẠNH CỦA SỰ THA THỨ
Câu chuyện xảy ra tại nước Pháp vào thế kỷ 19. 
Jean Valjean là một phạm nhân khổ sai vừa ra khỏi tù sau gần 20 năm thụ án vị tội ăn cắp một ổ bánh mì. Sau khi được tự do, Jean Valjean vẫn thực hiện việc ăn cắp vì . . . xã hội ruồng bỏ ông ta. Lần này, anh ta đã ăn cắp những chén đĩa bạc của vị ân nhân đã đãi anh ta một bữa ăn tối và cho anh ta ngủ qua đêm. Vị ân nhân ấy là Giám mục Myriel. Hôm sau, Jean Valjean bị bắt với bằng chứng trước mắt.
Nhưng ngay tức thì, Giám mục Myriel đã nhanh nhẹn nói với cảnh sát rằng : những chén đĩa bằng bạc kia là quà tặng mà ngài tặng Jean Valjean. Xúc động trước lòng đại lượng và cao thượng của Giám mục Myriel, Jean Valjean đã trở nên con người mới ; ông đã thành công cả về mặt tinh thần và vật chất.
***
Sau 20 năm bị giam giữ, nhà tù đã không thể làm cho con người Jean Valjean tốt hơn, nhưng chỉ bằng một hành động tha thứ cao thượng của Giám mục Myriel, Jean Valjean đã thay đổi thành một con người hoàn toàn mới và hữu ích cho xã hội. Ông trở thành thị trưởng của một thành phố và đã tiếp tục dành trọn cuộc đời của mình để giúp người nghèo và không ngừng tha thứ cho kẻ hại mình.
----------------
Ai ai trong chúng ta cũng được mời gọi không chỉ sống đúng theo pháp luật, nhưng còn là sống đẹp và biết tôn trọng phẩm giá người khác. Hành động của Giám mục Myriel đã làm cho Jean Valjean thay đổi không phải vì giá trị của những chiếc đĩa bạc đã giúp cho Jean Valjean một số vốn làm ăn, nhưng quan trọng hơn là Giám mục Myriel đã giúp cho Jean Valjean mở mắt ra để thực sự thấy lòng tốt nơi những người xung quanh mình. Chính khả năng nhận ra được lòng tốt nơi những người khác đã giúp cho Jean Valjean có niềm hy vọng và tin vào cuộc đời. Chính niềm hy vọng này đã giúp cho Jean Valjean thành công và trở nên con người tốt.
Sức mạnh của tha thứ là nằm ở chỗ đó. Khi bạn tha thứ cho một ai thì hành động tha thứ này nó không chỉ là hành động giữa bạn và người ấy, nhưng nó có ảnh hưởng và tác dụng rộng lớn trong mối quan hệ xã hội. Biết đâu, nhờ thái độ hòa giải tha thứ với một ai đó mà bạn có thể góp phần vào hạnh phúc cho gia đình của đương sự ấy thì sao? Biết đâu, lời nói xin lỗi của bạn hôm nay sẽ giúp cho ai đó có một giấc ngủ ngon và một bầu khí chan hòa trong bữa cơm chiều với gia đình họ thì sao ? Như thế, việc tha thứ cho người khác không chỉ ảnh hưởng giữa bạn và người ấy, nhưng nó còn như là hành động trao tặng một món quà.
Lời xin lỗi và thái độ hòa giải của bạn với người ấy có thể sẽ tạo một sức sống mới cho họ ; bạn cho họ một niềm hy vọng và niềm tin vào cuộc đời ; bạn cho họ biết rằng lòng tốt và con người tốt vẫn hiện diện trong một thế giới mà xem chừng như nhiều hận thù và ghen ghét.
Khi bạn tha thứ và hòa giải, bạn không mất gì cả, nhưng là một hành động cao thượng để giúp người. Bạn hãy giúp cho những người mà theo bạn là không thể tha thứ ấy cơ hội để họ có niềm tin vào lòng tốt con người qua hành động của bạn.
Hãy thực hiện ngay đi nha bạn !
(sưu tầm từ Internet)

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014

8 lý do để bạn uống chanh mỗi ngày

8 lý do để bạn uống chanh mỗi ngày
Một cốc nước chanh sẽ mang lại cho bạn rất nhiều lợi ích mà có thể bạn không biết, nhưng chỉ cần kiên trì đều đặn mỗi ngày một cốc trong suốt một tháng, chắc chắn bạn sẽ thấy da mình trắng hơn, hết mụn và ngủ tốt.
1. Cung cấp năng lượng cho cơ thể
- Nếu so sánh một cốc nước chanh và một cốc café, thứ nước nào nhiều năng lượng hơn. Hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng chính là café. Nhưng bạn đã lầm, café chỉ có tác dụng khiến thần kinh bị ‘đánh thức và căng cứng’ cho bạn cảm giác không buồn ngủ. Nhưng bạn làm việc vẫn sẽ thấy mệt bởi chúng chẳng hề cấp cho cơ thể năng lượng để hoạt động. Thay vào đó, oxygenates trong nước chanh lại thêm sinh lực cho cơ thể – đây là một bước khởi đầu tuyệt vời cho ngày mới của bạn.
2. Thúc đẩy tiêu hóa tốt
- Theo Viện nghiên cứu dinh dưỡng Hoa Kỳ, nước chanh kích thích dạ dày để tăng lượng dịch tiêu hóa và cải thiện nhu động ruột, các cơn co thắt cơ bắp mà đẩy thức ăn thông qua toàn bộ hệ thống tiêu hóa. Tiêu hóa được cải thiện có nghĩa là hấp thu dinh dưỡng tốt hơn và ít đầy hơi.
3. Giúp eo nhỏ hơn
- Việc eo nhỏ hơn khi uống nước chanh là do một lý do hết sức đơn giản, bởi chúng giúp đẩy hết chất thải ứ đọng trong bụng ra ngoài nhanh hơn, lượng mỡ cũng bị đốt cháy nhiều hơn. Một ly nước chanh đơn giản kích thích quá trình sản xuất của gan mật. Điều này, kết hợp với cải thiện nhu động của toàn bộ hệ thống tiêu hóa, là một phương pháp tự nhiên hơn loại bỏ chất thải. Nước chanh cũng hoạt động như một thuốc lợi tiểu nhẹ, tăng số lần đi tiểu và nhẹ nhàng xả nước ra độc tố từ đường tiết niệu. Kết quả: chất thải có trong cơ thể ít và phần eo ngày càng nhỏ hơn.
4. Hệ thống miễn dịch tăng
- Một cốc nước chanh tươi cung cấp cho bạn một lượng vitamin C chống oxy hóa rất lơn (khoảng 44,5 mg mỗi cốc nước chanh), nhưng quan trọng hơn, nó giúp cơ thể duy trì độ cân bằng pH. Bạn có thể hiểu, trái chanh có vị chua, bên trong cơ thể nó có tính kiềm, chính vì thế nó tạo ra độ cân bằng pH cho cơ thể, là một chìa khóa quan trọng để có sức khỏe tốt.
5. Giúp giải độc gan
- Với hơn 500 chức năng, gan là một cơ quan rất bận rộn. Vai trò quan trọng nhất của nó là để lọc máu các chất thải, các loại thuốc, thuốc trừ sâu và các chất độc khác. Nước chanh là một cholagogue mạnh mẽ, một chất kích thích sản xuất mật và thúc đẩy dòng chảy của mật vào ruột non. Một ly nước chanh buổi sáng nhẹ nhàng giải độc gan – và do đó, toàn bộ cơ thể được thanh lọc chất độc một cách nhẹ nhàng.
6. Giúp bạn giảm cân
- Gan là một cơ quan đốt cháy chất béo quan trọng. Nó điều chỉnh chuyển hóa chất béo, phá vỡ các chất béo và vận chuyển chúng ra qua ruột già. Một ly nước chanh hàng ngày của kích thích mất chất béo và cũng có thể giúp loại bỏ những nếp nhăn sần ở bắp chân, vùng bụng của các bà mẹ mới sinh và phụ nữ ngoài 40 tuổi.
7. Da đẹp hơn
- Tác dụng khử độc cho cơ thể cực tốt của chanh chính là lý do giúp làn da của bạn sáng hơn, khỏe mạnh hơn. Gan chính là nguyên nhân khiến làn da xấu và nhiều mụn, hãy để cốc nước chanh ‘bôi trơn’ bộ máy tiêu hóa và gan của bạn, làn da bạn sẽ rất đẹp mà chẳng cần phải dùng thêm thứ thuốc nào.
8. Nước chanh giúp cung cấp đủ nước cho cơ thể
- Điều này có thể rất dễ hiểu, thường ngày chúng ta cần đến 2 lít nước cho cơ thể, nếu chỉ dùng nước lọc bạn sẽ trở nên lười biếng. Nước chanh chính là giải pháp tốt vì chúng ngọt lại dễ uống trong những ngày nóng nực. Nó cũng chính là nguồn năng lượng thiên nhiên, tốt hơn cả nước lọc. Vì vậy, bạn nên bắt đầu một ngày với một ly nước chanh , nhưng nếu bạn thích nó, bạn có thể uống suốt cả ngày.

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Phong tục trong Tang Lễ của người Huế

Phong tục trong Tang Lễ của người Huế
Copy (2) of IMG_7379.JPG
Quan Chấp Lệnh đang điều hành Lễ Di quan

- Dân tộc ta từ xưa đến nay vốn rất tôn trọng lễ giáo. Những lễ nghi trong sinh hoạt , về luân thường đạo lý trong xã hội giữa cá nhân, giữa gia đình, trong Họ Tộc , giữa làng xóm v.v…đã đi sâu vào nếp sống của mọi người và trở thành những tục lệ cỗ truyền và có phạm vi trên khắp các vùng miền , hầu như mọi gia đình Việt Nam đều tôn trọng . Những phong tục này đã thoát ra ngoài khuôn khổ tôn giáo mang tính chất truyền thống của dân tộc, phù hợp với mọi tín ngưỡng . Sinh hoạt của xã hội Á Đông vốn nặng tình cảm, coi trọng huyết thống gia đình thân tộc hơn. Nên từ xa xưa, vấn đề tang lễ đã được đặt ra một cách có quy củ , chu đáo và cẩn thận. Các nghi thức về tang lễ, tang chế đều dựa theo các nguyên tắc luân lý và đạo đức của nền văn hóa ấy. Lâu ngày, các định lệ này đã thành ra tục lệ với những biến thể phù hợp với nếp sống riêng của từng vùng miền của người Việt Nam
. Riêng vùng Thừa Thiên – Huế và Quãng trị ngày nay , vốn là đất Kinh Kỳ hơn 300 năm của Nhà Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. Nên những nét văn hoá trong giao tiếp, trong ẩm thực, trong lễ hội, trong tang lễ…- những nét văn hóa phi vật thể , còn lưu giữ được cho đến ngày nay - “có thể nói là tiêu biểu nhất cho nền văn hóa – văn hiến Việt Nam.” (1).
- Bài viết này chỉ nói về một số tục lệ trong tang lễ ở một số vùng của Tỉnh Thừa Thiên – Huế mà tác giả có điều kiện nghiên cứu kỹ ( quê hương của tác giả). Đồng thời trình bày bài viết với phương ngữ của vùng này ( có lý giải một số thổ ngữ để độc giả dể hiểu ). Như đã nói, các phong tục trong tang lễ của các địa phương trên địa bàn Thừa Thiên Huế tuy có nhiều nét khác nhau nhưng vẫn giống nhau ở những điểm cơ bản . Xin được chép lại những nét cơ bản của tục lệ này ở vùng phía Nam của tỉnh Thừa Thiên - Huế , gồm các huyện - Phú Vang, Hương Thũy, Phú Lộc…. Để bà con Họ Đinh xứ Huế và bà con Họ Đinh gốc Huế đang sinh sống trên toàn quốc , biết , phòng khi gia đình có hữu sự khỏi lúng túng trong lúc " tang gia bối rối ".


Copy of IMG_7350.JPG
Ông Cai Giang đang điều khiển Âm Công gánh Giàn Đám

- Theo quy định của lệ làng , khi các gia đình có người qua đời, nếu chết ở đường xa đem về, quan tài không được đem vào nhà ( vào làng ), mà làm tang ở ngã ba đường cái , hoặc ở nghĩa trang làng. Nếu qua đời trong sự bình thường ở tại làng , quan tài thường được quàng ở nhà lớn , tùy theo địa vị trong gia đình để quàng ở căn giữa, căn trên hay căn dưới ( nhà ở của người Huế thường có ba gian ). Dân làng sẽ truyền miệng cho nhau để trong làng cùng biết - “Nhất cận thânnhì cận lưng” là vậy. Bà con lối xóm và thân thuộc trong họ tộc sẽ tập trung tại nhà tang chủ đầy đủ, người làm rạp, người trang hoàng, người tẩm liệm , ai cũng tự tìm ra việc để giúp đỡ tang chủ , công việc rộn rịp trong ngày đầu. Từ chết không ai được nói đến, mà gọi là mất. Người vừa mất được đặt trên cái giường quay đầu ra ngoài sân.
- Cơm gối đầu: Khi gia đình có người mất, người nhà đơm hai chén cơm đầy ép chặt vào nhau ( tượng trưng cho Âm ) , trên chén cơm để một quả trứng vịt đã lột vỏ ( tượng trưng cho Dương ) và cắm vào chén cơm một đôi đũa tre, trên đầu đũa có vót cho tre quấn lại thành cái bông gọi là đũa bông ( tượng trưng cho cây vũ trụ - cho sự sống ), rồi để chén cơm ấy phía trên đầu người chết.
- Tẩm liệm: Người chết được rửa ráy bằng nước ấm (nước đun sôi để nguội), dùng vải sạch lau lên thi thể. Có khi phun rượu để uốn nắn chân tay đã cứng và cong vào tư thế thích hợp. Thay bộ quần áo cũ bằng bộ quần áo tang vải sô. Mặc thêm bộ quần áo thường dùng nhưng còn mới, cắt bỏ khuy nút bằng kim khí, xương, sành, để tránh các vật liệu này ảnh hưởng lâu dài về sau với xương cốt của người chết . Người ta nhét vào miệng người chết miếng bã trầu và vài hột gạo hoặc cái khâu màu vàng, tục này gọi là phạn (ăn) hàm. Ở tay đặt vào vài đồng tiền xu xưa, hoặc tiền đang lưu hành, mục đích để người chết dùng tiền mà “đi đò” (đò âm dương – từ dương gian sang âm phủ). Đặt trên bụng một con dao hay cái liềm để trừ tà ma. Lúc khâm liệm, nếu người chết đã lớn tuổi là Phật tử thì đắp thêm trên người chiếc áo Quan Âm. Những người chết oan, giờ xấu thêm vào quan tài lá bùa do thầy pháp vẽ, hay bỏ thêm bộ bài trùng. Thân thể được bó lại ở một số đoạn bằng vải thô trắng (như tay , chân) , nhằm giữ thân thể cố định với tư thế thích hợp . Khi liệm chọn giờ tốt mà nhập liệm tránh Trùng Tang Liên Táng , tránh tương khắc với những người thân trong gia đình, nhất là người con ( cháu ) trưởng.
- Quan tài (hòm) được trét đất sét phía trong, đất sét được nhào thật nhuyễn với nước cơm (hồ) trát phía trong, ở các góc và các kẽ hở ( ngày nay đã được thay thế bằng các loại keo dán công nghiệp ). Dùng giấy bản dán vào lớp đất sét, lót dưới đáy hòm nhiều trà thô, mạc cưa, mun (tro bếp) .Khi nhập liệm phải làm lễ hạ thổ , thi thể đàn ông đưa lên đưa xuống đất 7 lần (7 vía), đàn bà 9 lần (9 vía), để khí dương trong thân thể người chết thoát hết vào đất. Sau đó đặt thi thể người chết vào quan tài, phủ đất cát sạch (hoặc đất vàng ) kín mít. Đậy nắp quan tài cũng phải coi giờ tốt. Dùng dây mây hoặc tre làm dây néo ở hai đầu quan tài thật chắc (tử khí trong quan tài mạnh có thể làm bật nắp quan tài). Quan tài đặt trên hai chiếc ghế ngắn. Chân ghế có cột vải tẩm dầu hỏa để phòng ngừa kiến leo lên. Dưới quan tài đặt một dĩa đèn dầu phụng thắp sáng suốt ngày đêm, mục đích là hơi dầu phụng thơm, xông lên đánh tan mùi tử khí. Phía ngoài hòm trang trí các hoa văn, cánh sen hoặc sơn phết cho đẹp, phủ trùm lên trên hòm một tấm vải “đăng ten” màu trắng, cuối cùng đặt lên trên nắp hòm một dãy đèn sáp ( số lượng 7 hoặc 9 cây tùy theo người chết là nam hay nữ ) , nhập liệm xong hòm được gọi làlinh cữu. Trước linh cữu đặt một bàn để thờ vong , gọi là Linh tọa (2). Trên linh tọa có bày đầy đủ bát nhang, đèn, bông chuối ,chén nước trong , bài vị và di ảnh của người chết . Trước linh tọa, đôi khi có nơi đặt bàn Phật, có nhà lập bàn Phật xây qua hướng khác.
- Minh tinh, hay còn gọi là Tấm Triệu, làm bằng vải , vóc hoặc nhiễu dài lối ba thước tây, rộng nữa thước, màu đỏ (hoặc trắng) , được treo vào một cành tre dài , theo lệ xưa thì người nhà phải tới nhà các vị chức sắc làng xã để xin chữ Triệu - vì Triệu thật tế là một thứ cờ tang được ghi tên họ, chức vị, tánh tình , đức hạnh của người chết để nêu cho thiên hạ biết . Những nhận xét này đều phải do các vị chức sắc phê ( nhưng thường được nêu những điều tốt đẹp, không ai dại gì nói xấu người chết ?), người nhà đem về điền tên tuổi vào cho đủ . Viết Triệu cần phải nhớ bốn chữ " Quỹ, Khốc, Linh, Thính " mà viết làm sao cho chữ cuối đừng phạm vào 2 chữ đầu là Quỹ và Khốc thì không tốt . Chữ chót của đàn ông nhằm chữ Linh và đàn bà nhằm chữ Thính là lành, cho nên phải tùy mà thêm bớt. Đàn ông lấy Tam cương làm trọng, đàn bà giữ Tứ đức làm đầu để hợp với số 3 và 4 là Linh, Thính. Trong Triệu ghi chữ của vị chức sắc cho, khi thêm vào nữa thì đàn ông ghi chữ Lợi viết ..., còn đàn bà thì chữ Biểu viết...: hai chữ Lợi viết tức là nhận lấy rằng..., cũng như chữ Lợi Quan là nhận chức . Còn hai chữ Biểu viết tức là Lộ, là rõ ràng danh hiệu cũng như hai chữ Biểu lộ vậy . Viết xong đặt hoặc treo ở bàn linh tọa , khi di quan mới treo ở cành tre và được mang đi đầu đoàn di quan .Không có lá triệu là không được, vì phong tục đã có câu “ ma chết không hồn, không triệu ” là không về cõi âm được.
- Tang lễ ở làng, nhà có điều kiện thường mời thầy chùa, thầy pháp, có ban nhạc lễ ; nhà có hoàn cành khó khăn, thì nhờ hội đồng của làng lo giúp, khuông hội Phật giáo làng đến cúng kiến tụng kinh chăm lo chu toàn. Chính nhờ những tục lệ quý hóa này của làng quê mà các tang lễ tổ chức ở làng tại xứ Huế , luôn ấm cúng và đầy tính nhân văn, khoảng cách giàu nghèo không còn. Chương trình tang lễ được đặt ra tùy theo xem được ngày giờ chôn cất lâu hay mau. Nếu không coi ngày giờ, nội trong ba ngày là phải chôn cất: “Tam nhật nội chi nội bất khán lịch nhật”. Người chết gặp lúc cận Tết phải chôn cất vào ngày 30 tháng Chạp, không được để sang năm mới.
Sau khi nhập liệm xong, sửa sang nhà cửa tươm tất rồi làm lễ thành phục
Lễ thành phục : là lễ chịu tang, con cháu nội ngoại, dâu, rễ, chắt chiu họp lại bịt khăn tang. Ai cũng dùng sắc phục màu trắng; riêng chắt nội mặc áo và bịt khăn màu đỏ, chắc ngoại mặc áo và bịt khăn màu vàng . Lễ thành phục xong, con trai, cháu nội đích tôn đội mũ rơm, chống gậy tre (nếu ông nội hoặc cha mất), gậy vông (nếu bà nội hoặc mẹ mất). Phụ nữ là con, vợ, dâu trùm vải lên đầu gọi là mũ mấn. Con cháu phải quanh quẩn bên quan tài không được lớn tiếng và không được ngồi ăn uống với khách đến viếng thăm, chỉ được phép đứng .
- Nhưng trước khi làm lễ thành phục phải có mâm cau trầu rượu, cậy( mời ) cho được một vị làm Chấp Lệnh nội (thường là mời các vị trưởng Họ, trưởng Phái , hoặc một người lớn tuổi trong dòng Họ có uy tín , có kinh nghiệm , có tài tổ chức đãm đương trách nhiệm này ). Ông chấp lệnh nội , là người điều hành tang lễ trong suốt thời gian tang chế. Mọi người trong hàng tang chủ phải tuyệt đối chấp hành, vì “ tang gia bối rối ” nên không sáng suốt để điều hành công việc , mọi nhu cầu hoặc ý kiến đều trình bày với “quan” chấp lệnh .
- Sau khi làm lễ thành phục , phải mời làng ( “làng" là các vị trong hội đồng tộc trưỡng và các vị chức sắc của làng) đến nhà tang chủ để thưa chuyện – khi thưa phải có khay trầu rượu, thường là con trai trưỡng của người chết đứng ra thưa ( hoặc chú bác của người này), xin làng cử cho một quan Chấp lệnh Ngoại để phát lệnh làng – và một vị Cai Giang để chỉ huy việc đưa linh cửu ra nghĩa trang , xin làng lo giúp cho người thân được mồ yên mả đẹp , xứng đáng là con dân của làng . Làng sẽ có trách nhiệm hoàn toàn sau lời thưa gởi này, các bộ phận trong việc phục vụ một tang lễ của làng được tự giác vận hành , làng sẽ cử người thích hợp cho hai chức danh quan trọng trên đây để điều hành toàn bộ cuộc lễ . Người được cử sẽ tùy theo vai vế và công đức của người chết với dân làng để được cử người xứng đáng hay không ? Khi người được cử chấp thuận ( thường là phải qua đôi ba lần từ chối và đẩy đưa khéo léo mới nhận lời ) ,Quan chấp lệnh vừa được cử sẽ gióng ba hồi ba tiếng chiêng lệnh, lệnh làng sau đó tiếp tục được người Mõ làng phát ra bằng ba hồi phèng la thông báo khắp trong làng - cho dân làng biết gia đình đã phát tang . Tập quán làng hễ khi có người qua đời, việc đầu tiên là đến thăm hỏi, sau khi gia đình phát tang có lệnh làng bằng tiếng phèng la , thì bắt đầu đến phúng điếu. Lễ vật phúng điếu là hương (nhang) và tiền (không nhiều). Đây là nghĩa vụ của người dân hương thôn giúp đỡ nhau khi hoạn nạn, lúc tang gia, việc này sẽ được tang chủ ghi chép cẩn thận để mà trả ơn khi có người khác lâm vào tình cảnh như mình thì phúng viếng giúp đỡ lại, gọi là "thù tạc vãng lai "(có qua , có lại). Nếu là sui gia, Họ, Phái, tổ chức tập thể phải có thêm mâm cau trầu rượu. 
Lệnh chiêng để làm lễ khi có người đến phúng điếu được phân biệt rỏ :
- Ba hồi lệnh và ba đùi ( ba tiếng) : Dành cho đại diện của các đơn vị lớn như Làng, Họ, Phái, Xóm ; hoặc đại diện của các cấp chính quyền địa phương , các tổ chức chính trị - xã hội ....
- Một hồi lệnh và ba đùi ( ba tiếng) :- Dành cho sui gia , thông gia hoặc ai có mâm cau trầu rượu
- Ba đùi ( ba tiếng ) : Là dành cho tình làng nghĩa xóm , bạn hữu , bà con nội ngoại .
Chỉ cần nghe tiếng chiêng lệnh là phân biệt được ai đang phúng điếu.
Trước ngày đưa đám có một số lễ cúng như: lễ yết cáo từ đường (trình với tổ tiên ngày mai đến ở chỗ mới),triều điện (lễ buổi sáng),tịch điện (lễ buổi tối). Đêm trước ngày mai đưa linh cữu về nơi an nghỉ cuối cùng có lễ nhiễu quan. Lễ nhiễu quan là lễ đi quanh hòm, để tỏ sự luyến tiếc lần cuối đối với người chết. Lễ cáo đạo lộ là lễ trình xin đường với thần giữ đường ngày mai đưa đám, đặt bàn có hương hoa và vật phẩm , cáo ở đường lộ gần nhà (lễ này cáo ban đêm, chủ lễ là người không bịt khăn tang). Sáng ngày di quan có lễ Khiển điện và lễ Triệt linh sàng .
- Âm công : Sau khi có lệnh làng, tang quyến xin danh sách của bộ phận này ở Cai giang và các vị chức sắc của làng , để tiến hành đi mời họ đến ngày di quan , đến nhà tang chủ để đưa linh cữu ra nghĩa trang ( đây là một cái lệ nhằm bày tỏ sự tôn trọng , chứ thật ra chỉ cần nghe tiếng phèng la báo giờ di quan đã đến thì thanh niên trai tráng trong làng, và gần như toàn bộ dân làng không một ai dám vắng mặt). Bộ phận di quan này gồm rất nhiều người :
1 / một quan chấp lệnh ngoại ( đã được làng cử trước đó )
1 / một quan cai giang ( cũng đã được làng cử trước đó )
1 / ông giàn đồ ( người chịu trách nhiệm quản lý và chỉ huy việc kết – tháo giàn đám của làng )
- 4 vị đầu roi 
- 50 âm công
Nếu có nhiều trướng liễn, lẵng hoa, vòng hoa…phúng điếu cần phải mang theo, thì có thể nhờ thêm những người trong Họ, Phái và bà con xóm giềng.Thông thường lệ làng không nhận thù lao, nên tang quyến dù giàu hay nghèo đều có tổ chức một bữa cơm mời bộ phận này ăn uống. Có thể dùng bữa trước khi di quan hoặc sau khi chôn cất xong. 
- Giàn đám :
Trước khi đưa đám, phải kết giàn đám. Cánh đàn ông đi khuân vác giàn đám về kết ở nơi rộng rãi thuận tiện gần nhà tang chủ. Giàn đám làm bằng gỗ tốt, gồm có hai đòn bông to dài chịu lực, nhiều xà bang bắc ngang và một khung gỗ hình chữ nhật ở chính giữa làm nơi đặt quan tài, tất cả được kết nối khéo léo từ các bộ phận rời . Các xà bang được chia ra từng đoạn đều nhau có thắt các dây nài kết hợp các tay đòn (chỗ âm công gánh). Giàn đám được trang hoàng lộng lẫy bao kín chung quanh cỗ quan tài . Khi âm công gánh đám, người trước cách người sau nửa bước chân, nên khi gánh không thể đi nhanh được, mà phải đi chậm rãi. Nhìn từ xa như con rết khổng lồ chuyển động.
- Di quan :
Bộ phận quan trọng nhất khi Di quan là Ban âm công gồm :
1 Cai giang thắt lưng màu đỏ, cầm hai cây đèn sáp lớn và một cặp sanh (trắc)
4 ông Đầu roi thắt lưng màu trắng, cầm một cây đèn sáp nhỏ và một cây cờ nheo (cờ ba cạnh)
32 âm công ( hoặc nhiều hơn )cầm mỗi người một cây đèn sáp nhỏ, áo lễ quần dài trắng
Sau khi nghe gióng lệnh chiêng của ông Chấp lệnh, ông Cai Giang đánh ba hồi trắc và ba tiếng báo hiệu giờ di quan bắt đầu. Ban âm công sắp một hàng dài trước sân theo thứ tự như trên, đi vào nhà, vòng quanh quan tài một vòng (theo chiều kim đồng hồ) rồi ra sân, mục đích quan sát trước chỗ đặt quan tài để khi di quan khỏi bỡ ngỡ. Lúc này gia chủ để một mâm cau trầu và một chút tiền bạc đặt trên chiếc bàn đặt trước linh cữu gọi là lễ bái quan. Sau khi bái quan, âm công nhận lễ vật này.
Copy of IMG_7344.JPG
Ông Cai Gian đang cùng Âm Công làm Lễ bái quan

- Ra đến sân, âm công thắp tất cả đèn sáp (vẫn giữ một hàng dọc và thứ tự như trước). Từ đó, Cai Giang cất cặp sanh, im lặng ra lệnh bằng đèn sáp, không ra lệnh bằng tiếng. Cai Giang dẫn đầu đoàn âm công đi năm bảy vòng (theo chiều kim đồng hồ) trong sân như rắn bò (liên xà). Sau cùng, một vòng lớn rồi tiến thẳng vào nhà đến trước quan tài. Cai Giang dừng lại trước quan tài. Đoàn âm công tiếp tục rẽ phải, rẽ trái chia làm hai hàng đi ra; dẫn đầu mỗi hàng là một ông Đầu roi. Cai Giang đứng trước mặt bốn hàng âm công. Đứng đầu mỗi hàng là một ông Đầu roi, đồng làm lễ bái quan một lạy (quỳ bằng một đầu gối ). Tang chủ đứng hai bên linh cữu lạy ra một lạy (lạy trả). Bái quan xong, hai hàng âm công ở giữa quay đằng sau mà bước tới (đi ra) để chắp vào đuôi của hai hàng ở hai bên, làm thành hai hàng dài, đầu đầu và đầu đuôi của một hàng có một ông đầu roi. Cai Giang giơ cao đèn sáp ra lệnh hàng bên phải, hàng bên trái vào đứng hai bên quan tài để di quan.
Quan tài vừa ra khỏi nhà, một người ở trong nhà phải lấy dĩa đèn dầu phụng thắp dưới quan tài ném mạnh xuống đất tạo ra tiếng động lớn “choảng” sau đó rút một tấm tồn trên mái nhà hoặc rạp, mục đích để hồn ma đi ra không vương vấn lại nhà. Quan tài ra đến sân, tất cả đoàn âm công đều tắt đèn. Cai Giang dùng trắc và tiếng hô để ra lệnh âm công đưa quan tài vào bàn địa dư (bàn để linh cữu). Bốn góc quan tài có bốn ông Đầu roi giúp Cai Giang ra lệnh nâng góc quan tài lên hay hạ xuống hoặc chuyển lệnh của Cai Giang đến âm công. 
--Trước khi khởi hành, Cai Giang thường báo cho âm công biết đường đi đến huyệt mả xa gần, dễ đi hay khó đi, khuyên mọi người cố gắng cho chuyến đò cuối của một đời người. Lệnh ra dõng dạc và nghiêm, thường dùng các từ sau đây:
- “ Bơi hai đốc (âm công dạ…). Dãy trong cho chí dãy ngoài, tất cả nghe cho rõ, nghe cho lọt trắc. Nghe một tiếng trắc thì tay trái bóp nài tay phải ôm đòn đứng khom . Nghe hai tiếng trắc là dùng sức nâng đòn đứng dậy . Nghe ba tiếng trắc là cho một lớp lên vai .Nghe hai nhịp ba là đều chân bước …. Bốn góc có bốn ông Đầu roi giúp đở…. Cho một lớp lên eo cho thật. Không xách, không nhún, khom lưng, chống đầu gối, tay bóp nài cho chặt…. Đi chậm chậm, rà chân…” . Ở một số làng Cai giang còn thêm thắt một số bài vè chia buồn với tang quyến, ca ngợi công đức của người quá cố . Nói chung Cai Giang tùy ý điều khiển, sắp xếp hiệu lệnh, miễn sao âm công gánh cho đầm, hạ huyệt cho êm là nhiệm vụ chính của Cai Giang. Nghề này không có sách vở dạy, nhưng phải là những người có khiếu ăn nói , dạn dỉ , am hiểu thuần phong mỹ tục của làng mới làm được .
Đưa đám ra nghĩa trang, đi xa hay gần đều phải gánh bộ. Nếu đường xa thì Cai giang phải tính toán bố trí một lớp âm công dự bị nhằm thay đổi người gánh. Linh cữu ngang qua các nhà thờ lớn, đình chùa, miếu, Cai Giang cho dừng lại, ra lệnh ra vai xuống eo để tỏ sự tôn kính. Đi qua khỏi, mới lên vai đi tiếp. Những người trợ tang phải dùng lọng che phần cổng của am miếu đó cho đến khi linh cữu qua hết mới cất đi. 
-- Tế Đạo Trung ( Độ Trung ):
Đi được nửa đường , đoàn di quan dừng lại để làm lễ tế đạo trung, cũng là dịp để âm công nghỉ ngơi. Thân bằng quyến thuộc ai chưa đi điếu được, đây cũng là dịp để phúng điếu vì sau khi chôn cất xong không được đi điếu nữa. IMG_4863.jpg
Lễ Tế Đạo Trung vị Thầy Pháp đang làm lễ - người mặc áo xanh , khăn đóng )
-- Hạ khoáng – Hạ huyệt :
Huyệt đào chôn phải thâm thổ 3 tấc đất, nghĩa là đến lớp đất nguyên sơ (mặt đất cũ) phải đào sâu thêm ba tấc nữa (30cm) , tính từ nắp quan tài lên mặt đất khoãng 01 mét là được . Vì chôn cạn quá xương bị khô; chôn quá sâu xương bị mục. Chôn sâu ba tấc đất đủ khí âm dương, là tốt. Trước khi hạ huyệt, có lễ trị huyệt để đuổi tà ma ẩn núp trong huyệt.
-- Lễ tạ thổ thần ở nghĩa địa:
Chôn xong, làm lễ tạ thổ thần tại mộ gọi là lễ Thành phần, lễ vật gồm hoa, bánh chuối và bộ áo thổ thần. Chủ lễ là người không bịt khăn tang. Sau khi chôn cất xong, về nhà làm lễ “phản khốc” là công việc đã xong .
-- Mở cửa mả : 
Kể từ ngày mai táng đến ngày thứ ba là ngày mở cửa mả, thường gọi là tuần Tam nhật . Vào buổi sáng, người nhà sửa soạn lễ vật, nhang đèn trầu rượu ra thăm mả , chăm sóc sửa sang phần mộ lại một lần nữa .Sau đó làm lễ Tế ngu ( Ngu có nghĩa là yên), cầu cho vong linh người quá cố được yên, trong lễ này có tục lệ thầy cúng dùng con dao vạch lên phía chân nấm mộ ba đường dọc và đọc ba câu thần chú như sau (mỗi lần vạch dao là đọc một câu thần chú) :
Nhất trung, khai môn mộ, hung thần tốc xuất;
Nhị tả, khai môn mộ, vong giả an cư;
Tam hữu, khai môn mộ, gia phước an khang.
Dịch nghĩa:
Một vạch ở giữa, mở cửa mả thần hung dữ phải ra mau.
Vạch thứ hai phía trái, mở cửa mả, người mất ở yên ổn.
Vạch thứ hai phía phải, mở cửa mả, gia đình được phước yên lành .
- Ngày nay ở một số làng đã có một số cải biên cho hợp với điều kiện của từng làng , như : Hiện ở một số làng khi người làng chết ở xa đem về đã được phép đưa vào làng ( vào nhà ) , Quan chấp lệnh nội và ngoại đều do một người đảm đương , hoặc nếu nghĩa trang ở xa thì dùng xe đưa tang , hoặc việc ăn uống trong tang lễ được hạn chế cho hợp với lối sống mới ….Nhưng những nét cơ bản vẩn được giữ nguyên vì đây là một nét văn hóa rất hay của Xứ Huế mà người Huế vốn sống trọng tình trọng nghĩa luôn luôn gìn giữ – đây là một chuẩn mực văn hóa mà “ chẳng nơi nào có được ”.
- Trên đây là những tục lệ cơ bản mà người dân Thừa thiên - Huế thường áp dụng trong các tang lễ , nhất là ở vùng phía Nam của tỉnh . Những phong tục này, đã được nhiều tác giả chấp bút và trình bày theo những gì mình biết , mình nghiên cứu và văn phong của mình . Nên một số bài viết có thể trùng lắp một số nội dung , phương ngữ thì cũng đương nhiên thôi , nhưng theo tôi - một tục lệ tốt đẹp của một vùng miền mà được nhiều người cùng quan tâm nghiên cứu , học tập thì thật là quý hóa . Vấn đề khác nhau ở chổ là sử dụng nghiên cứu đó , bài viết đó vì mục đích gì ?
Đinh Khắc Thiện , 23/06/2011
Sưu tầm và biên soạn )
________________________________________________________________

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014



HẠNH PHÚC TRONG MẸ
Mừng kính mẹ yêu Đức Nữ Trinh
Tâm hồn trong sáng dạ trắng tinh
Làm con cái Người thật hạnh phúc
Xin vâng như mẹ đời hiển vinh
Nay dâng lên mẹ tấm lòng này
Bao đêm sầu khổ gánh nặng vai
Mẹ thương con đây xin cố gắng
nghe lời Mẹ dạy phúc ngày mai
Tri ân tình Mẹ thương nâng đở
Khi mà con nhỏ vướng bùn nhơ
Cuộc đời mai này bao điều tốt
Bầu trời vui hưởng thật nên thơ.

Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

LINH ĐỊA TÀ PAO – NƠI ĐỨC MẸ CHỌN

LINH ĐỊA TÀ PAO – NƠI ĐỨC MẸ CHỌN
1. NGUỒN GỐC THÁNH TƯỢNG ĐỨC MẸ TÀ PAO
Tượng Đức Mẹ trên núi Tàpao (gọi tắt là tượng Đức Mẹ Tàpao) nằm ở xã Đồng Kho, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Tượng Đức Mẹ này đúc bằng xi măng trắng cao 3m, đặt trên một bệ vuông cao 2m. Quần thể công trình tượng đài, lễ đài Đức Mẹ Tàpao hiện đang là một trong những trung tâm hành hương lớn của người Công giáo Việt Nam.
Năm 1959, Lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội được tổ chức rất long trọng tại các Giáo phận miền Nam Việt Nam nhằm kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, được gọi là Đại hội Thánh Mẫu Toàn quốc. Dịp này, tổng thống Ngô Đình Diệm - một người theo đạo Công giáo - chỉ thị cho Phủ Tổng uy dinh điền xây dựng năm tượng đài Đức Mẹ ở Miền Trung, Miền Nam và Cao nguyên Trung phần trong các năm 1959, 1960 và 1961 bao gồm:
Đức Mẹ Tà Pao (Bình Tuy nay thuộc Bình Thuận).
Đức Mẹ Giang Sơn (Darlac),
Đức Mẹ Thác Mơ (Phước Long),
Đức Mẹ Phượng Hoàng (Kom Tum) và
Đức Mẹ Trinh Phong (Ninh Thuận).
Thánh tượng Đức Mẹ Tàpao được đánh số thứ tự I (số một La Mã) sau lưng nhưng sau khi trùng tu đã không còn.
Ngày 8 tháng 12 năm 1959, lễ Cung hiến và khánh thành tượng Đức Mẹ Tà Pao do Giám mục Marcello Piquet (Piquet Lợi) (giám mục giáo phận Nha Trang bấy giờ) cử hành, với sự chứng kiến của đông đảo linh mục, tu sĩ và hàng chục ngàn giáo dân phần lớn gốc di cư từ Huế, Nha Trang, Buôn Mê Thuột, Đồng bằng sông Cửu Long... Có thể nói Lễ Cung hiến và khánh thành tượng Đức Mẹ Tà Pao là một Đại lễ tôn giáo tầm cỡ quốc gia lúc bấy giờ ở miền Nam Việt Nam.
Từ năm 1964 đến năm 1975, toàn bộ vùng Bắc Ruộng (bắc sông La Ngà) thuộc quyền kiểm soát của Chính Quyền cách mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam. Hầu hết bà con giáo dân sơ tán về vùng Nam Ruộng (Nam sông La Ngà) và những nơi khác, nên Tượng đài Đức Mẹ Tàpao không ai chăm sóc và dường như bị lãng quên…
Sau biến cố 1975, vào khoảng tháng 10 năm 1980, một số bà con giáo dân thuộc vùng Kinh tế mới xã Đức Tân và xã Huy Khiêm đã tiến hành việc kiếm tìm lại Tượng Đài Đức Mẹ Tàpao. Năm 1984 có 3 gia đình giáo dân về sống dưới chân núi Tàpao. Trong mưu sinh họ đã lên núi chặt cây, tìm trầm và bẫy thú đã thấy thánh tượng Đức Mẹ.
Chuyền miệng kể rằng khoảng năm 1985 - 1990, có người đi chặt cây và tìm trầm đã tìm thấy thánh tượng Mẹ. Ông ta phát hiện trên thánh tượng có đôi mắt sáng như được làm bằng đá quý, thánh giá trên dây tràng hạt được làm bằng bạc và móng chân - móng tay cũng được cẩn đã quý nên đã đục lấy đi hết. Ông ta về bán và trở nên giầu có, nhưng sau đó ông ta bị tan gia bại sản và chết sau đó thời gian ngắn.
Cũng chuyền miệng kể rằng cùng thời gian đó, có 1 người đi tìm trầm nhiều năm liền đến nỗi sắp tan gia bại sản, mệt mỏi và cùng kiệt. Khi thấy thánh tượng Đức Mẹ trên núi đã thành tâm cầu xin và Mẹ đã ban cho anh ta tìm được 1 cây có trầm trị giá rất lớn. Sau khi lấy trầm bán, anh ta đã giữ đúng lời hứa trở lại cảm tạ và phát quang xung quanh thánh tượng mẹ.
Thánh tượng mẹ lúc này không còn nguyên vẹn do chiến tranh, và cũng có thể do con người tàn phá. Hai mắt bị mất, hai bàn tay không còn, mười ngón chân bị đục và trên thân tượng có rất nhiều dâu vế của đạn bom.
Năm 1991, khoảng 100 giáo dân từ Định Quán, Phương Lâm, Duy Cần (Gia an hiện nay) Đức Tân, Huy Khiêm và Đồng Kho hiện nay (lúc đó thuộc xứ Huy Khiêm) cũng với Đức Giám Mục Phan Thiết bấy giờ là Đức Cha Nicolas Huỳnh văn Nghi, đã tổ chức tu sửa lại Thánh Tượng Mẹ (thời điểm này chính quyền chưa cho giao dân công khai lên viếng thánh tượng mẹ cũng như trung tu). Sau thời gian dài chuẩn bị và công việc tu sửa đã diễn ra trong 1 đêm và đã tu sửa gần như hoàn chỉnh ngoại trừ đôi chân mẹ không đủ thời gian làm vì đã trời sáng.
2. HIỆN TƯỢNG ĐỨC MẸ TÀ PAO
Sự việc bắt đầu bằng câu chuyện ba em học sinh Phương Lâm thấy Đức Mẹ hiện ra và bay về phía bên kia núi. Ngày 29.9.1999, lễ kính các Tổng Lãnh Thiên Thần, một nhóm giáo dân vùng Phương Lâm và phụ cận, rồi sau đó các vùng Dốc mơ, Gia kiệm, Hố nai, rồi Sàigòn… tuôn đổ về vùng giáp ranh giữa Phương lâm và Tánh linh với ước mơ được nhìn thấy Mẹ.
Nhiều người biết có tượng đài Đức Mẹ trên núi Tàpao thuộc huyện Tánh Linh, Tỉnh Bình thuận và đoàn người đã đổ xô về Đức Mẹ Tàpao để chiêm ngắm, cầu nguyện và xin ơn… Khi đến chân núi Tàpao họ đã nhờ người địa phương chỉ giúp đường lên thánh tượng vì thời điểm này chưa có đường nào dẫn lên thánh tượng mẹ ngoài một số đường mòn của giáo dân sống dưới chân núi làm để đi bẫy thú. Những người đến với Đức Mẹ Tà Pao đầu tiên đều đi theo đường này. Sau này khi người hành hương đến đông hơn, nhiều gia đình dưới chân núi cả bên giáo và bên lương đã mở nhiều đường lên Thánh Tượng Mẹ.
Dưới chân bục thánh tượng mẹ lúc này chưa có nền bê tông bao quanh nên khi có nhiều người đến đã làm sạt lở rất nguy hiểm. Cũng những giáo dân đến từ Định Quán, Phương Lâm, Gia An, Đức Tân, Huy Khiêm và Đồng Kho đã tổ chức đổ nền bê tông để khỏi bị sát lở. Thời điểm này chính quyền địa phương vẫn chưa cho phép nên công việc cũng được làm xong trong 1 đêm sau nhiều tháng chuẩn bị. Vì việc tu sửa này mà một số anh em giáo dân đã bị bắt, bị phạt tiền và đi tù.
Và rồi từ đó, biết bao câu chuyện lạ và ơn lạ được tường thuật lại như những chứng nhân ân sủng Thiên Chúa ban qua trung gian cầu bầu của Đức Mẹ Tàpao. Ơn lạ cụ thể nhất không ai có thể chối cãi, đó là: nhờ lòng kính mến và thành tâm khẩn nguyện cùng Mẹ Tàpao mà bao linh hồn được ơn sám hối ăn năn, đổi mới cuộc đời quay về nẻo chính đường ngay, bao gia đình tan vỡ được hàn gắn hoà thuận, bao kẻ âu lo thất vọng được an ủi và lấy lại niềm tin yêu cho cuộc sống…
Chẳng đáng ngạc nhiên lắm sao! khi sau bao năm tháng hầu như bị lãng quên, ngày nay Đức Mẹ Tàpao trở thành nơi hội tụ của những người con dân Việt khắp ba miền, trong cũng như ngoài nước; trở thành điểm quy chiếu để mỗi người có thể trở về lại với chính mình và nhận ra được con người đích thực của mình. Và cũng chính nhờ đó mới có thể khám phá ra được dung mạo đích thực của Thiên Chúa tình yêu qua dung nhan dịu hiền yêu thương của Đức Maria trong đời thường của mỗi người!
Ban đầu người ta còn bán tín bán nghi, nhưng dần dần nhiều người đến đây cầu nguyện và họ được những điều sở nguyện. Niềm tin Mẹ đang hiện diện và sẵn sàng nâng đỡ ủi an con cái Mẹ giữa cuộc đời gian nan đau khổ. Và cho đến nay, địa danh linh thiêng này đã thành quen thuộc với khách hành hương từ thập phương đổ về.
Năm 2006, thánh tượng mẹ được đại trùng tu và xây dựng thêm 2 hạng mục là lễ đài rộng 200m2 và đường bậc tam cấp hơn 400 bậc dẫn lên thánh tượng mẹ. Công trình được khánh thành vào ngày 13 tháng 5, 2007 (ngày 13 hàng tháng vẫn thường có thánh lễ do giám mục giáo phận Phan Thiết cử hành trên núi hoặc dưới chân núi) và chính thức có tên gọi Trung tâm Hành hương Đức Mẹ Tà Pao.
Năm 2010 tiến hành xây dựng lại quản trường trung tâm thánh mẫu Tà Pao dưới chân núi và đường bậc tam cấp lên Thánh tượng mẹ phía bên phải theo tượng mẹ. Công trình đã xây dựng hoàn thành cuối năm 2011.
3. Tàpao, điểm hẹn của tình thương Mẹ
Từ trên thập giá nhìn xuống Mẹ hiền yêu qúy đang can trường chia sẻ sự đau thương tột độ của Người, Chúa Giêsu đã muốn nhường Mẹ lại cho Giáo Hội. Và bên cạnh Me, còn có cả người môn đệ tâm phúc nhất của đời mình, Chúa Giêsu nói với Mẹ: “Hỡi Bà, đây là con bà”, Chúa cũng nói với thánh Gioan: “Đây là Mẹ Con”.
Thế là Con của Mẹ từ đây sẽ là Giáo Hội là cả nhân lọai. Từ ngày Mẹ cùng các tông đồ nhận lãnh Chúa Thánh Linh, nhất là từ ngày Mẹ được tôn vinh trên trời, được Chúa Phục sinh cũng là Vua Vũ Trụ ban cho Mẹ tước vị Nữ vương trời đất đầy quyền uy trước mặt Chúa, thì Mẹ không ngừng gắn bó và hết tình thương yêu Giáo Hội. Suốt hơn hai nghìn năm lịch sử Giáo Hội, Mẹ không ngừng ban phát muôn vàn hồng ân, giúp Giáo Hội trên đường lữ hành trần thế.
Thỉnh thỏang, Mẹ lại chọn một địa điểm đặc biệt để làm nơi Mẹ nâng đỡ ủi an những con cái đầy khồ đau của Mẹ, hoặc để ban một sứ điệp quan trọng.
- Tháng 2-1858, ở Lộ Đức với “sứ điệp Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
- Tháng 10-1917, ở Fatima với “Sứ Điệp Cầu Cho Hòa Bình Thế Giới”.
Chúa phán: “Hỡi những ai mang gáng nặng nề, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Bây giờ chính Mẹ tiếp tục tình thương đó. Ngày nay, giữa lúc nhân loại đang đối mặt với không biết bao biến cố vô cùng nguy hiểm cho vận mạng nhân lọai, Mẹ lại thường xuất hiện, có khi đầy nước mắt hòa trong máu.
Điều đặc biệt của tình thương của Mẹ là biểu lộ chính tình thương của Thiên Chúa. Đó là tình thương dành cho những người đau khổ, đói khát, bệnh tật, những cuộc đời đầy bất hạnh gian truân và những người khiêm cung bé nhỏ. Lời tạ ơn của Đức Mẹ muốn nhấn mạnh đến tình thương đó của Thiên Chúa.
Có thể nói giấc mơ của 80% nhân lọai trong thiếu thốn đói khát được gói trọn trong lới tạ ơn của Đức Mẹ. Ngày nay, người ta đã thấy rõ 80% của cải trái đất lại nằm trong tay 20% nhân lọai giàu có. 80% của nhân lọai trở nên nghèo khổ. Sự nghèo khổ ngày càng gia tăng, cùng với bệnh tật, bao nhiêu sự bất công và thiệt thòi khác. Lời kinh của Mẹ như một thông điệp tiên tri kêu gọi phải có công bằng xã hội, không thể có phân biệt đối xử.
Ta thấy tình trạng ngày nay người giàu gạt người nghèo ra một bên để tự do hưởng thụ của cải trái đất. Nước giàu lấn át nước nghèo để tranh thủ phần ưu tiên cho họ. Đó là sự bất công mà Thiên Chúa không thể tha thứ được.
Thiên Chúa sẽ lọai bỏ họ, đánh đổ kẻ kiêu căng, xô sập những ngai vàng ích kỷ, bắt người giàu có bất lương trở thành hai bàn tay trắng.
Thiên Chúa sẽ nâng đỡ người bất hạnh, người nghèo đói, người đau khổ bị áp bức. Họ sẽ trở thành Dân riêng của Người. Đây không phải là những lời ru ngủ mà là ý định muôn đời của Thiên Chúa.
Tại những điểm hành hương, Đức Mẹ đang chữa lành, đang an ủi, đang thay lòng đổi dạ con người tội lỗi….Đó là thông điệp của Trời Mới - Đất Mới. Lịch sử mới đang hình thành cách nhiệm mầu và Thiên Chúa sẽ đến xét xử thế giới để cho con người nhận lại được giá trị cao qúy của mình.
Và ở Tàpao, Đức Mẹ cũng đang làm như vậy!
4. Tàpao, trường học Đức Tin của Mẹ
Đứng trước bao tại họa đang dôn dập trên mặt đất, tai họa từ môi trường thiên nhiên, từ lòng dạ đầy hận thù và ích kỷ của con người, từ sự kiêu căng của những người mạnh thế, liệu nhân lọai có thóat khỏi cảnh tuyệt vọng đó được không?
Đức Mẹ muốn nói với chúng ta: Hãy tin vào quyền năng vô biên và lòng yêu thương của Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới viết được dòng chữ thẳng trên những đường cong của lịch sử. Đó là kinh nghiệm của một người tù thoát chết nhờ có lòng tin.
Một người Việt kiều ở Mỹ bị ung thư và bác sĩ cho biết đã đến giai đọan cuối. Phương thế của khoa học đã đầu hàng. Bệnh nhân chỉ còn một chút hi vọng ở Đức Mẹ Tàpao. Người ấy về Việt Nam, nhờ bạn bè giúp đỡ đưa đến bên Mẹ Tàpao, tha thiết sám hối và xin Mẹ chữa lành. Rồi trở về Mỹ, thấy trong người càng ngày càng khỏe. Đến bác sĩ cũ khám bệnh lại. Bác sĩ vô cùng ngạc nhiên, không hiểu tại sao bệnh tình của bà không còn nữa. Trường học Đức Tin của Mẹ là thế đó.
Có một cặp vợ chồng ở Tư Tề, Đức Linh, chồng lương vợ giáo. Người chồng rất ghét khi vợ đi dự lễ đọc kinh, có khi phê phán ra mặt. Nhưng đến lúc ông bị bệnh xơ gan cổ trướng, hết đường chữa chạy, ông nói với vợ đi cầu với Đức Mẹ Tàpao cho ông. Quả thật Đức Mẹ đã nhậm lời và cho ông lành bệnh, ông đã học giáo lý và trở lại đạo. Trường học Đức Tin của Mẹ là như vậy đó!.
Thế giới hôm nay với kiến thức khoa học tiến bộ tột bậc, nhiều người tưởng rằng tôn giáo đang tàn lụi, con người đang làm chủ vận mạng mình, cần gì đến thần thiêng nữa. Thực ra, đó chỉ là cường điệu, là ảo tưởng của khoa học. Cả một trời bí ẩn đang bao quanh cuộc sống này. Và những tai ương khủng khiếp đầy thách thức của chúng đang là một thông điệp lớn thức tỉnh con người. Trước những biến chuyển lớn lao đó, con người không phải chỉ biết thống kê, chỉ biết tìm cách phòng tránh mà thôi, mà còn chỉ biết đọc, biết lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa, phải tin Ngài mới là chủ tể nắm trong tay vận mệnh con người.
Cách đây hơn hai ngàn năm, chẳng phải chính Đức Giêsu đã từng nói: “Anh em sẽ nghe có giặc gĩa và tin đồn giặc giã, coi chừng đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng không phải là chung cuộc. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, nước này chống lại nước nọ. Sẽ có những cơn đói rét và những trận động đất ở nhiều nơi. Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là sự khởi đầu các cơn đau đớn”. Đó là những lời ghi nhận của Thánh Matthêu khi Chúa đã nói về tương lai của lịch sử vũ trụ và nhân lọai. Thánh Luca còn ghi nhận thêm: “ Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21,25-26).
Đây là một Tin mừng, vì Chúa không đe dọa nhân lọai, nhưng Chúa chỉ cho thấy sự suy thoái của thiên nhiên đi về đâu và lòng dạ con người xa rời Thiên Chúa sẽ làm cho cuỗc sống nhân loại xảy ra như thế nào. Chúa là tình thương, khi thấy trước Giêrusalem sẽ bị tàn phá - Chúa chỉ khóc, khóc cảnh thảm thương não nề vì dân Chúa không biết tin và trông cậy vào Chúa. Thảm họa đến với họ, vì họ đã bỏ Chúa là thành lũy che chở họ.
Về phần Mẹ, với con tim từ mẫu bao la, giữa thời đại con người tìm cách gạt Thiên Chúa ra khỏi sinh họat của mình và chỉ biết tin vào chính mình, Mẹ đã dùng những địa điểm gặp gỡ để chữa lành bệnh tật, an ủi kẻ âu lo và tỏ cho người ta biết Đất Trời còn có thể gặp gỡ nhau, sự hiện hữu của Thiên Chúa với Đức Mẹ và các Thần Thánh vinh quang của Ngài là có thật. Nhất là Thiên Chúa chỉ muốn cho con người nhận biết tình Ngài là bao la vĩnh cửu của một người Cha khôn sánh. Quyền năng Ngài là tuyệt đối trên mọi tạo vật. Ngài giơ tay ra là sóng yên biển lặng. Ngài đứng lên là toàn bộ vũ trụ vâng nghe. Chỉ cần nhân lọai biết tìm về Ngài, tin vào Ngài là nhân loại tìm thấy Trời Mới Đất Mới.
Thống kê lại một số chứng từ được ơn Mẹ thì chúng tôi thấy ơn trở lại cùng Chúa thì nhiều hơn ơn chữa lành. Các Thánh đã từng nói: “Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu”. Không phải ở Tàpao này mà thôi, như ở Mễ Du, khách hành hương chỉ mới đến đây thôi, đã thay đổi ngay tâm hồn và muốn đi xưng tội. Cho nên Đức Mẹ có điểm hẹn nơi nào là nơi đó tăng thêm lòng tin, ở đó thành nơi linh địa. Chính các linh mục quanh đây gặp rất nhiều người sám hối. Gần nửa đêm còn có khách hành hương xin xưng tội.
Quả thực, ta có thể nói : Tàpao là bàn tiệc mừng của những con chiên lạc trở về mà Đức Mẹ đang dọn sẵn cho chúng ta.
Chúng ta không biết ơn Chúa sao được!
Chúng ta không biết ơn Mẹ sao được!
Tàpao ơi hãy vui mừng, hãy hãnh diện vì có Mẹ Thiên Chúa đang ngự nơi đây.
Từ hơn 5 năm qua, khách hành hương đến với Mẹ Tàpao ngày một đông thêm. Điều đó chứng tỏ đã có biết bao người, lương cũng như giáo, trong nước cũng như ngoài nước được Mẹ Tàpao nhậm lời và cầu bầu cho ơn hồn - xác. Nhiều chứng nhân đã được kể lại, những lời khấn, những lời tạ ơn và những lời chân thành được viết trên những trang giấy đơn sơ mộc mạc gởi vào các thùng xin khấn.
Đường hành hương là đường thánh giá. Từ chân núi lên tượng Mẹ biết bao là khó khăn vất vả. Đường lên dốc, đất đá trơn trượt phải bám từng bước mà leo. Đường xuống núi trơn tuột phải ghì từng bước chân mà bước. Dù mưa gió, dù tối tăm khách hành hương vẫn đến với Mẹ nguyện cầu.
Một trung tâm hành hương là nơi Đức Mẹ đã chọn để gặp gỡ con cái Mẹ cách đặc biệt. Chính nơi đây, tình thương Chúa được tỏ bày qua bàn tay dịu hiền của Mẹ. Nơi đây, Đức Mẹ tiếp tục sứ vụ của Con Mẹ là “Loan báo Tin mừng cho người nghèo” (Lc 4,18), Đức Mẹ tiếp nối thông điệp tình thương “ Hỡi những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghĩ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Tàpao không phải là địa điểm do con người tạo ra. Tàpao là nơi Mẹ chọn để mọi người từ muôn phương đến được Mẹ bồi dưỡng bằng ơn lành hồn xác. Một khi đã đón nhận những ân ban, người ta được Mẹ mời gọi cải thiện đời sống, sống theo Tin mừng.
Đến với Mẹ Tàpao, hãy tin tưởng và noi gương Mẹ, sống bác ái yêu thương.
Đến với Mẹ Tàpao, hãy siêng năng lần hạt như Mẹ dạy.
Đến với Mẹ Tàpao, sau khi đã thực hiện lời Mẹ dạy, sẽ không về không.