Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

NGHỊCH LÝ CUỘC SỐNG!

 NGHỊCH LÝ CUỘC SỐNG!

Nhà mẹ là nhà con
Thản nhiên các con ở
Nhà con, mẹ ở đỡ
Ít hôm phải ra về?
Nhà mẹ, con khen chê
Uống ăn tuỳ sở thích
Nhà con, mẹ đúng lịch
Ăn ngủ phải căn giờ?
Nhà mẹ, con sạch dơ
Không một lời ca thán
Nhà con, mẹ phải ráng
Ăn ở cho gọn gàng?
Nhà mẹ con cãi ngang
Nhiều khi còn to tiếng
Nhà con “im như hến”
Dù mẹ có đúng sai?
Nhà mẹ, con rất oai
Khách ra vào cả đám
Nhà con, mẹ đâu dám...
Phải xin phép rõ ràng?
Nhà mẹ, không khang trang
Cuộc sống con no đủ
Nhà con, đầy nhiều thứ
Sao mẹ phải đói no?
Của mẹ, không đắn đo
Thản nhiên con cứ lấy
Của con, dù mẹ thấy
Khi dùng phải hỏi thưa?
Nhà mẹ, con dậy trưa
Nước cơm đã bày sẵn
Nhà con, mẹ chắc chắn
Bị lườm nói khó nghe?
Khi xưa, con khóc nhè
Mẹ ẵm bồng rõ khéo
Nay, cháu khóc bị réo...
Bà sao lại vụng về?
Nhà mẹ ở dưới quê
Các con về rao bán
Đón mẹ lên bầu bạn
Chăm sóc tiện chúng con
Bán xong, mẹ tủi hờn
Bởi chúng đòi chia chác
Rồi cư xử ác bạc
Vì toan tính thiệt hơn?
Ước mong già cậy con
Giờ tan thành mây khói
Mẹ lại thầm mong mỏi
Được quay lại nhà xưa!
Hỡi bố mẹ già nua
Hay là đang còn trẻ
Dù ốm đau, mạnh khoẻ
Nhà ta hãy cứ dùng...
Bởi đó ngôi nhà chung
Cho gái trai dâu rể
Chúng quây quần ngày lễ
Khi cúng Tổ, cúng Tiên
Giờ đây vì bạc tiền
Tình cảm tựa mưa nắng
Ơn sinh thành nghĩa nặng
Chúng quên cả rồi sao
Hỏi đất thấp, trời cao
Mẹ cha gì nên tội?
Sao con không nghĩ tới
Mình nếu giống mẹ cha !!?
Nguồn bài viết: Văn Anh Nguyễn.


Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2024

ĐÃ TÌM LÊN XỨ TRÀ NGAO...

 ĐÃ TÌM LÊN XỨ TRÀ NGAO...

Xứ Trà Ngao là xứ Kontum. Đúng hơn là Miền truyền giáo Kontum bao gồm cả Kontum, Pleiku, Banmêthuột, Phú Bổn…
Sở dĩ có tên gọi Trà Ngao là vì ở Miền truyền giáo Kontum, các vị thừa sai đã đặt một cư sở chính ở tại Trung tâm Truyền giáo cho người Bahnar-Rơngao, còn gọi là Rơhai, vị trí ngay giáo xứ Tân Hương thành phố Kontum bây giờ. Chung quanh thành phố này có nhiều đồng bào dân tộc Rơngao – một sắc dân chính trong vùng. Khi chưa có tên gọi hành chính, người Kinh ở Trung Châu (các tỉnh đồng bằng duyên hải miền Trung) thường gọi tên vùng theo sắc dân và đã gọi vùng Kontum là xứ Rơ Ngao. Và cũng từ đó xuất hiện tên gọi Trà Ngao.
Không riêng gì ở Tây Nguyên – Kon Tum, trong nước Việt Nam từ Nam ra Bắc có nhiều địa danh mang thành tố “Trà” ở trước tên gọi. Tùy theo đặc điểm từng vùng và yếu tố ngôn ngữ mà chúng có ý nghĩa khác nhau.
Có khi từ tố này có gốc thuần Việt, chẳng hạn địa danh Trà Mi ở Quảng Nam, là tên một loài hoa thuộc hoa hồng, được trồng làm cảnh.
Có khi thành tố Trà có gốc Hán Việt, nó lại liên quan đến…trà (chè), như ở Quảng Ninh có địa danh Trà Bản (cái gốc của cây trà); Trà Cổ (tên ghép Trà Phương – Cổ Trai. Trà Phương là hương thơm của trà).
Một số khác bắt nguồn từ ngôn ngữ Chăm hoặc Khơme:
-Xuất phát từ chữ Ia (sông nước) gốc Chăm mà chuyển thành: Trà Bồng, Trà Khúc, Trà Câu (Quảng Ngãi), Trà Bình (Bình Định)…đều liên quan đến các dòng sông, con suối.
-Do âm tiết Tra đứng đầu trong tên gọi, hay Tà (nghĩa là ông+tên người) trong ngôn ngữ Khơme: Trà Vinh, Trà Cuôn, Trà Lọt, Trà Quýt…, ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ.v.v. [1]
Tuy nhiên, khi thành tố Trà theo lớp cư dân người Kinh ở Trung Trung Bộ lên Kon Tum, nó lại mang một ý nghĩa khác. Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vân, nhà nghiên cứu lịch sử Tây Nguyên đã dẫn ý kiến và đồng tình với ý nghĩa sau đây của từ tố Trà trong một số địa danh ở tỉnh Gia Lai khi viết rằng: “Theo Linh mục Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn, một người đam mê nghiên cứu lịch sử-văn hóa, từ tố Trà trong rất nhiều địa danh ở Gia Lai có nguồn gốc từ từ pla, tức là làng trong tiếng Chăm. Trong cách đọc của cư dân ven biển miền Trung Trung bộ, pl thường bị biến âm thành tr, trà ở đây được biến âm từ pla, có nghĩa là làng mà thành” [2]. Và Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vân kết luận: “Vậy, chúng tôi thấy ý kiến cho rằng từ tố Trà trong những địa danh ở Gia Lai có nguồn gốc từ pla hay plơi – tức là làng trong ngôn ngữ Malayo-Polinesian mà cư dân Việt vùng ven biển miền Trung nước ta chịu ảnh hưởng từ trước, là có cơ sở”[3].
Nhận định trên hoàn toàn có thể áp dụng cho cả tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Thường thì tên của làng bắt đầu bằng Trà kết hợp với tên chính của làng hay tên người lập làng. Những tên làng này qua thời gian có thể chuyển hóa thành tên đơn vị hành chính lớn hơn như xứ, vùng, xã, cộng đồng dân cư.
Ở Kon Tum, ngoài Trà Ngao (xứ Rơ Ngao), còn có Trà Rộp (Plei Jơdrâp), Trà Quắc (Plei Rơ Wăk). Gia Lai có Trà Huỳnh (Plei Towân), Trà Oe (Plei Tơuer), Trà Cu/ Trà Cú (Plei Ku), Trà Tiên (Plei Têng), Trà Nhiên (Plei Nhing), Trà Đa (Plei Dal – làng Cố Corompt Hiển thành lập), Trà Phan (làng linh mục Phan thành lập), Trà Dôm (Plei Piơm), Trà Nhá (Plei Tơ Nhă), Trà Bá (?)…
Năm 1925, Đức Cha Đamianô Grangeon Mẫn (Qui Nhơn) đã cho phép các tín hữu các tỉnh Trung Châu lên lập nghiệp làm ăn trên Tây Nguyên, do hoàn cảnh đói kém xảy ra dưới vùng đồng bằng. Ngài đã ra thư chung “Về sự cho bổn đạo nghèo đi làm ăn nơi khác”, trong đó Đức Cha đã hướng dẫn cặn kẽ các cha sở và bổn đạo:
“Vì vậy đừng cho đi Saigon hay Đà-lạch [Đàlạt], vì phần thì xa xuôi, phần thì chẳng ai bảo lãnh lo liệu cho, ắt phải khốn khó mọi bề mà chớ. Có hai nơi nên cho bổn đạo tới làm ăn:
Một là, trong Phan-rang; tại Hộ-diêm, địa sở cố Thiết; hoặc tại Rừng-lai, địa sở cố Lợi. – Nhưng vậy hai nơi này cũng hẹp, chẳng lãnh đặng bao nhiêu nhà.
Hai là, xứ Trà-ngao (trên mọi); đất ruộng minh mông, khí lạnh, đất tốt; lập vườn, làm ruộng đều được. Ai tới đó chí công lập nghiệp chắc sẽ được ấm no và có khi sẽ nên phú túc”.
Ngài còn đề xuất những nơi đến cụ thể:
“Vả chăng nhiều Cha trên ấy sẵn lòng lãnh bổn đạo dưới nầy lên, và lo lắng cho phần hồn phần xác; nhứt là mấy cha sau nầy:
a) Cố Hiển [Corompt] ở tại An-hòa và Đàng-riơ, muốn cho có kẻ tới đặng vỡ ruộng, lập vườn trồng trà-phe, trồng chè…
b) Cố Cận [Nicolas] tại Pơlei-Poo, cũng hiếm chỗ lập vườn làm ruộng.
c) Cha Phan, ở Pơlei-ku, Tiên-sơn; Cha Nhì [Hutinet], Thăng-bình; cha Diện, Pơlei-Đơrap; Cha Ban, Hamông; cùng mấy cha khác cũng trông cho kẻ tới lập nghiệp làm ăn, chẳng thiếu chi đất hoang nhàn phì mĩ” [4]
Chúng tôi xin giới thiệu một bài thơ miêu tả phong cảnh xứ Trà Ngao, tại trung tâm của sắc dân Rơ Ngao – tỉnh lỵ thành phố Kon Tum ngày nay, kèm một vài hình ảnh xưa, để chúng ta hiểu hơn về xứ sở này. Bài thơ trích trong Tạp chí “Chức Dịch Thơ Tín” của Địa phận Kon Tum, số 44, tháng 12 năm 1936, tr.553-554. Bài thơ cách đây gần một thế kỷ nhưng chúng ta ngày nay đọc lên vẫn cảm thấy đồng cảm với tác giả: “Gọi là gợi chút ơn xưa…”.
NHÌN PHONG CẢNH NHỚ NGƯỜI XƯA
Mắt nhìn phong cảnh Kontum,
Nhớ người thiên cổ bút cầm chép qua.
Kể từ lầu sứ tỉnh tòa,
Ngó lên thẳng rẳng cửa nhà liên miên.
Hết hai dẫy phố tiếp liền,
Xảy thấy một miền đồn lính vẻ vang.
Từ đây đã hết nhà quan,
Tiếp luôn trên nữa là tràng Têxa.
Nhà thờ đẹp đẽ nguy nga,
Thánh danh bổn mạng Đức Bà Môi-khôi.
Gióng lên Phường-nghĩa một hồi,
Mắt trông đã thấy một ngôi thánh đường.
Toàn cây chắc đẹp phi thường,
Bên kia lại có vừng hồng vẻo ve.
Hiệu là trường thánh Giu-se,
Ngó quanh qua phía hàng tre kia đàng,
Đức Cha đã lập một tràng,
Trong ngoài đẹp đẽ vẻ vang quá chừng.
Bây giờ xây lại sau lưng,
Ngay ra đàng cái nhắm chừng xa xa,
Mắt trông lại thấy một tòa,
Nguy nga tráng lệ gọi là “Torium”.
Trường nầy lớn nhứt Kontum,
Đã cao lại rộng lẫy lừng minh mông.
Cố Lui (Louison) cũng lập vườn bông,
Kế luôn phía dưới giữa đồng ngã ba,
Thường kêu hang đá Đức Bà,
Để cho ai nấy đến mà khẩn xin.
Tự lòng kính mến cậy tin,
Ốm đau tật bịnh an tuyên hằng hà.
Ấy là vắn tắt đơn sơ,
Những nơi lễ tế phượng thờ mà thôi,
Không sao cho hết các nơi,
Kẻo ra dài quá lạc lời đề trên.
Vậy nay muôn việc đều nên,
Láng tràn nước Chúa khắp trên miền này.
Đầu giây mối nhợ ai gầy,
Đem đàng chỉ lối ở đây bây giờ.
Xưa kia vốn những bụi bờ,
Rừng cao núi rậm mịt mờ liên liên.
Ấy nhờ các đấng chăn chiên,
Dâng mình tế lễ cho miền mọi cao.
Đã tìm lên xứ TRÀ NGAO,
Những hồi chưa có đàng vào nẻo ra.
Thương thay cho bấy các Cha,
Vì con chiên lạc đàng xa chẳng nài,
Giày sàn đạp sỏi chông gai,
Miễn sao cho đặng truyền lời Evan.
Đành lòng cam chịu gian nan,
Đem người ngoại giáo hiệp ràn Hội-công.
Rày người giữ đạo rất đông,
Minh mông khắp xứ khôn cùng kể ra.
Lâu đài phố xá nguy nga,
An cư lạc nghiệp, âu ta phải tường.
Nhớ ơn các đấng mở đường,
Nguyện cho hồn đặng miên trường tiêu diêu.
Nay vì thanh khí ban chiều,
Dạo chơi phường phố thấy nhiều cảnh xinh.
Bỗng nhiên trực nhớ đến mình,
Còn mang ơn nặng vô tình bấy lâu.
Vội vàng vắn tắt vài câu,
Hiến cùng độc giả giải sầu cho vui.
Gọi là gợi chút ơn xưa…
Paul T. P. N.
(Chức Dịch Thơ Tín số 44, tháng 12.1936, tr.553-554)
Minh Sơn – Tháng 04/2024
_______________
Chú thích:
[1] Lê Trung Hoa, “Địa danh Việt Nam mang thành tố Trà”. Nguồn: khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
[2]&[3] Nguyễn Thị Kim Vân, “Nguồn gốc địa danh có từ tố “Trà”, Báo Gia Lai online ngày 19/11/2017.
[4] Thư Đức Cha Đamianô (1925) “Về sự cho bổn đạo nghèo đi làm ăn nơi khác”. Trích Mémorial Mission de Quinhon, Số 5, Mai 1925, tr. 69-70. Nguồn: gpquinhon.org
(Ảnh: Nhà Rông Bahnar ở Kon Tum - Ảnh: MEP).
Nguồn bài viết: (Mời vào trang để xem hình ảnh)












Nguồn bài viết : Lê Minh Sơn.

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2024

NGƯỜI TÌNH TRONG “THU, HÁT CHO NGƯỜI” LÀ AI ? (TIẾP THEO).

 NGƯỜI TÌNH TRONG “THU, HÁT CHO NGƯỜI” LÀ AI ? (TIẾP THEO).

KỲ 2: ĐỜI CHƯA NGUÔI GIÓ BÃO.
(Bài viết trích đoạn trong tập sách "Người tình trong những ca khúc của Trương Văn Khoa - Nhà xuất bản Hội Nhà Văn - 2013).
Cuối năm 2011, một lần viết về bài hát này trên báo “Người lao động”, Vũ Đức Sao Biển giải thích rằng, tựa đề ca khúc “Thu, hát cho người” là hát cho chính mình, hát cho mùa sim tím, tháp cổ và dòng sông ở vùng quê nghèo khó Thăng Bình (Quảng Nam). Lần này, không hiểu vì sao, trong bài báo “Tôi viết Thu, hát cho người”, ông không hề nhắc đến những câu chuyện về Thu ngày ấy ? Ông tâm sự, thuở học trò, tâm hồn trong sáng như dòng suối êm đềm xuôi chảy dưới chân đồi. Mùa thu, hoa sim tím nở như một tấu khúc dịu dàng. Hoa sim, màu hoa tím nhạt lãng mạn, bình dị giữa thu vàng lại gợi nhớ đến như vậy ? Ông nhớ hoa, nhớ người, ôm đàn và hát lên:
"Giòng sông nào đưa người tình đi biền biệt
Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa
Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ
Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ…”
Thật ra, Vũ Đức Sao Biển đã mượn ý của thi sĩ Thôi Hiệu (đời Đường) trong bài “Hoàng hạc lâu” với câu:
“...Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du…”
(…Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không…)
Và ngẫu nhiên, những lời trong bài hát “Thu, hát cho người” cũng trùng với ý thơ của thi sĩ nổi tiếng người Pháp Guillaume Apollinaire (1880-1918) trong bài thơ để đời L'Adieu (Lời vĩnh biệt):
“…J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends…”
Sau này, thi sĩ Bùi Giáng dịch thành:
(…Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ... )
Năm 2007, trong một lần gặp gỡ văn nghệ, khi Vũ Đức Sao Biển nhắc lại câu hát:
“…Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó.
Để hái dâng người một đóa đẫm tương tư…”
nhà văn Sơn Nam đã “phê bình” Vũ Đức Sao Biển : “Mày nói dóc ! Cây sim ngoài Quảng Nam của mày thấp tịt, vậy mày ngồi chỗ nào để đợi con nhỏ đó ? Mà cái đồi sim thì trống huơ trống hoác, con nhỏ đó có đến thì mày mần ăn được gì ?”
Vũ Đức Sao Biển lý giải rằng, cây sim già không nhỏ, đặc biệt là khi mọc trên đồi cát, có cây cao vài ba mét, tỏa bóng mát quanh năm. Ngày ấy, tuổi 20, lòng Vũ Đức Sao Biển vô cùng trong sáng chẳng bao giờ dám nghĩ tới hai chữ “mần ăn” như ông già Nam bộ đã nói.
Liên quan đến mối tình thơ mộng này, vào năm 1967, tại La Qua, Vĩnh Điện, (Quảng Nam), Đynh Trầm Ca (Mạc Phụ) đã viết tặng cho Hồ Thị Thu ca khúc "Ru con tình cũ" rất thiết tha.
Năm 1970, tình cờ trong một đêm nhạc ở Sài Gòn, một người ở Nhà xuất bản âm nhạc Khai Sáng nghe xong đã chuyển bản nhạc này cho Lệ Thu, cô ca sĩ nổi tiếng này đã bật khóc ngay trong phòng thu âm khi hát đoạn đầu tiên: "Ba năm qua em trở thành thiếu phụ, ngồi ru con như ru tình buồn..."
Bản nhạc cũng được ca sĩ Hà Thanh hát trên đài phát thanh Sài Gòn:
”Ba năm qua em trở thành thiếu phụ
Ngồi ru con như ru tình buồn
Xin một đời thôi tiếc thương nhau
Xin một đời ngủ yên dĩ vãng
Ba năm qua em trở thành thiếu phụ
Ngồi ru con như ru tình sầu
Kỷ niệm nào ghi dấu trên tay
Cho lòng này dài những cơn đau
Ôi ba năm qua rồi
Đời chưa nguôi gió bão
Người xa xôi phương nào
Người có trách gì không?
Thôi anh ơi anh đừng hờn trách nữa
Đời em như rong rêu tội tình
Xin gục đầu ghi dấu ăn năn
Thôi đừng buồn em nữa nghe anh”.
Sau này, người con gái tên Thu cũng đi vào trong bài thơ "Cây đàn thương nhớ" của Đynh Trầm Ca với những hình ảnh rất đẹp của tuổi học trò:
“Buổi ta vác cây đàn ngang trường cũ
ai như em đứng ngó cuối hành lang
ai như ta ngồi mơ sau cửa lớp
có lẽ nào mình còn đó sao, Thu ?...".
Hơn 40 năm trôi qua, "Thu hát cho người' dường như có sức quyến rũ lạ thường. Café Thu ngày ấy không còn nữa… Hồ Thị Thu bây giờ đã ngoài 60 và trở thành một bà chủ tiệm bán hàng trang trí nội thất ở thị trấn Hà Lam.
Mỗi lần về lại Thăng Bình, lên những đồi sim bạt ngàn ở vùng trung du (Bình Định, Bình Trị,...), tôi lại khe khẽ hát trong hoài niệm, trong nỗi nhớ về những tháng ngày xưa cũ...
"...Thời gian nào trôi bềnh bồng trên phận người
Biệt ly nào không buồn phiền trên dấu môi
Mùa vàng lên, biêng biếc bóng chiều rơi
Nhạc hoài mong, ta hát vì xa người...”.
Trương Văn Khoa.


NGƯỜI TÌNH TRONG CA KHÚC “THU, HÁT CHO NGƯỜI” LÀ AI ?

 NGƯỜI TÌNH TRONG CA KHÚC “THU, HÁT CHO NGƯỜI” LÀ AI ?

(Bài viết trích đoạn trong tập sách "Người tình trong những ca khúc" của Trương Văn Khoa - Nhà xuất bản Hội Nhà Văn - 2013)
KỲ 1: CAFE THU NGÀY ẤY...
Tình yêu trong “Thu hát cho người” nồng nàn và sâu lắng. Có thể nói, Vũ Đức Sao Biển đã để lại trong lòng người miền Trung, đặc biệt là vùng đất Thăng Bình (Quảng Nam) một dấu ấn đặc biệt. Thị trấn Hà Lam, người tình và mùa sim tím vẫn còn nguyên những nét ban sơ cho dù thời gian đã trôi đi gần một nửa thế kỷ.
Và nói như cố nhạc sĩ Trinh Công Sơn, khi bạn hát một bản tình ca là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi đừng e ngại. Dù hạnh phúc hay dở dang thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn rồi.
Thời trung học, cứ mỗi lần đi học ở trường Tiểu La, tôi vẫn có thói quen hay uống café tại một quán rất quen thuộc tên là Café Thu. Quán giản dị với những chiếc bàn gỗ cũ kỹ theo năm tháng. Ngày ấy, ở thị trấn Hà Lam (Thăng Bình, Quảng Nam), ai cũng biết quán này, chủ nhân là một người đàn bà trên 30 tuổi nhưng còn đẹp và sâu lắng. Một điều đặc biệt, café ở đây rất ngon, nhạc hay và buồn như chính chủ nhân của nó. Lúc bấy giờ, thứ "nhạc vàng" này, người ta thường hay cấm nên mỗi khi nghe xong, tôi “nuốt” từng lời, về nhà chép lại và tập hát với cây đàn guitar cũ. Chính vì thế, tôi thuộc rất nhiều ca khúc của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thuỵ Miên,...Lúc rỗi, tôi thường nói chuyện với chủ quán, những lúc như thế, đôi mắt cô Thu thường đượm buồn, xa xăm, nhớ về một dĩ vãng không xa lắm...
Cách đây gần 50 năm, trên đoạn đường từ ngã tư Hà Lam đến cổng trường trung học Tiểu La - Thăng Bình, người dân ở thị trấn nhỏ lẻ này chắc không quên cô nữ sinh tên là Thu, hàng ngày cắp sách đến trường. Hồ thị Thu, người vùng quê ngày ấy thường gọi là Thu Chuẩn (ba cô ta tên là Chuẩn) để phân biệt với những cô Thu khác. Thu học ban C, có giọng hát hay, quyến rũ và từng là hoa khôi của truờng Tiểu La lúc bấy giờ. Với mái tóc dài xõa ngang lưng, khuôn mặt trái xoan, làn da trắng hồng, thướt tha trong tà áo dài trắng, Thu đã làm cho biết bao nhiêu chàng trai điêu đứng. Trong số đó, Vũ Đức Sao Biển và Đynh Trầm Ca (Mạc Phụ), những học trò chân đất, nhìn người đẹp rồi mơ mộng yêu đương, về nhà làm thơ viết nhạc... Đynh Trầm Ca có "Ru con tình cũ", Vũ Đức Sao Biển có "Thu, hát cho người", những bài thơ này đã được giới học sinh, sinh viên chép nhau rồi truyền tụng. Tên tuổi của các thi sĩ cũng nổi danh từ đó. Chỉ có một điều, đây là những mối tình trong mộng tưởng, tình yêu đơn phương, lãng mạn ở lứa tuổi học trò.
Thời gian trôi đi, Thu lấy chồng sớm, chàng trung úy pháo binh tên Trần Đình Ái, một pháo đội trưởng pháo binh. Ái là sĩ quan pháo binh yểm trợ cho bộ binh hành quân ở vùng Sơn Tịnh, Quảng Ngãi.
Thời ấy vào khoảng năm 1973.
"Thu, hát cho người" để tặng cho Thu được Vũ Đức Sao Biển sáng tác vào năm 1968, là một trong nhạc phẩm làm nên tên tuổi của ông:
"Giòng sông nào đưa người tình đi biền biệt
Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa
Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ
Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ
Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó
Để hái dâng người một đóa đẫm tương tư
Đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió
Sáng linh lan hồn ta khóc bao giờ
Ta vẫn chờ em trên bao la đồi nương,
Trong mênh mông chiều sương
Giữa thu vàng, bên đồi sim trái chín
Một mình ta ngồi khóc tuổi thơ bay
Thời gian nào trôi bềnh bồng trên phận người
Biệt ly nào không buồn phiền trên dấu môi
Mùa vàng lên, biêng biếc bóng chiều rơi
Nhạc hoài mong, ta hát vì xa người.
Bài hát được 2 danh ca Hà Thanh và Anh Ngọc hát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Sau đó, những giọng ca tên tuổi của Miền Nam như: Phượng Bằng, Mai Hương, Quỳnh Dao, Kim Tước, Vân Quỳnh, Vân Hà, Ngọc Long...thể hiện rất thành công. Bài hát được công chúng đón nhận nồng nhiệt và trở nên nổi tiếng lúc bấy giờ.
Vũ Đức Sao Biển tên thật là Vũ Hợi, sinh ngày 12 tháng 2 năm 1948, tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Quê quán tại Duy Vinh, Duy Xuyên, Quảng Nam. Ông còn dùng bút danh Đồ Bì, Đinh Ba, Mạc Đại khi viết phiếm luận. Năm 18 tuổi, ông vào Sài Gòn học Đại học Sư phạm ban Việt - Hán và Đại học Văn khoa, ban Triết học phương Đông. Năm 1970, ông tốt nghiệp và đến Bạc Liêu dạy học các môn Văn, Triết học bậc trung học tại trường Công lập Bạc Liêu. Năm 1975, ông rời Bạc Liêu và trở lại thành phố Hồ Chí Minh dạy học, công tác tại Phòng giáo dục huyện Nhà Bè. Mười năm sau trở lại Bạc Liêu và cho ra đời các ca khúc về miền đất phương Nam. Sau đó, ông cộng tác và làm việc ở tòa soạn báo Công an TP.HCM, Thanh Niên...Hiện nay, ông làm việc ở báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, Tuổi Trẻ Cười. Ông là hội viên Hội Nhạc sĩ và Hội Nhà báo Việt Nam.
Một thời, “Thu, hát cho người” đem đến nhiều giai thoại cho giới văn nghệ sĩ, nhất là Quảng Nam, Đà Nẵng và TP. HCM. Tháng 1/2010, trong chương trình “Gặp gỡ cuối tuần” phát trên HTV7, Vũ Đức Sao Biển có đề cập đến bài hát và coi đó là tình cảm trong sáng của chính tác giả với một người con gái cùng quê ở Quảng Nam. Sau một thời gian xa cách, khi trở về, cô gái ngày xưa giờ có lẽ đã có một bến bờ khác. Một mình lang thang lên đồi sim tím, nơi đã từng gắn bó với mối tình ngày xưa, cảm xúc chợt ùa về…
Và “Thu, hát cho người” ra đời trong hoàn cảnh đó.


* Các bạn đón xem kỳ 2: ĐỜI CHƯA NGUÔI GIÓ BÃO.
Trương Văn Khoa.