Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

Chúa nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm B

Thánh Kinh bằng hình: Chúa nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm B

Ngày 24 tháng 05 năm 2015
CN Lễ Hiện Xuống:
Phúc Âm Ga 20, 19-23
"Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” 
”Chúa Thánh Thần đã xuống trên các Tông đồ và Hội thánh mới được thành lập”. Biến cố lễ Ngũ Tuần được Sách Công vụ tông đồ diễn tả bằng những lời văn sống động gần giống cách tường thuật việc Thiên Chúa ban Lề Luật cho dân Chúa trên núi Sinai. Với khí thế tưng bừng, náo nhiệt, ào ạt gió bão, Chúa Thánh Thần tràn ngập cộng đoàn Hội Thánh tiên khởi, gồm 11 môn đệ Chúa Giêsu, Mẹ Maria, một số phụ nữ đạo đức và 120 tông đồ (Cv 1, 15). Trong ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ, tông đồ và những người hiện diện đều được tràn đầy Thần khí và đều cất tiếng ca ngợi những kỳ công Chúa đã làm, cao rao Lời Chúa hứa ban ơn cứu độ nay đã nên thành sự.
Ngày nay Thần khí Chúa hiện diện khắp mọi nơi, mọi chỗ trên toàn thể thế giới. Tác động của Thần khí đảm nhận mọi nền văn hóa riêng biệt và đa dạng trong một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Sứ điệp Tin Mừng của Chúa chỉ có một nhưng đối với từng dân tộc thì sứ điệp ấy được rao truyền bằng ngôn ngữ của chính nước họ. Thần khí của Thiên Chúa cũng chỉ có một nhưng ở nơi đâu thần hứng được diễn tả bằng những phong tục, tập quán, văn hóa của địa phương họ để một ngôn ngữ được diễn tả hợp với tư tưởng, suy nghĩ phù hợp với khẩu vị, truyền thống của từng dân tộc.
Thần khí của Thiên Chúa vẫn đang tràn đầy khắp thế giới, nhưng mọi nước, mọi nơi có biết lãnh nhận Thần khí và có biết tái hiện lại ngày lễ Ngũ Tuần trong Hội Thánh địa phương không? Điều này đòi hỏi phải sống hội nhập văn hóa. Bởi vì, mỗi nước, mỗi ngôn ngữ có một cách diễn tả đức tin khác nhau. Mỗi ngôn ngữ đều có nền văn hóa riêng biệt, người Âu Châu có cách diễn tả riêng, người Phi Châu có cách diễn tả của lục địa họ, người Á Châu có cách diễn tả riêng của Á Châu.Thần khí của Thiên Chúa luôn chan hòa và tràn ngập thế giới này, nhưng để đón nhận dược Thần khí lại là một chuyện đòi hỏi con người phải biết mở lòng ra.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến biến đổi tâm hồn chúng con. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi   DCCT
Thánh Kinh bằng tiếng Việt
Thánh Kinh bằng tiếng Anh

Thứ Bảy, 23 tháng 5, 2015

Đà Lạt Ngày xưa

Đà Lạt ngày xưa
Nhạc phẩm : Đà Lạt hoàng hôn
Trình bày : Cs Cẩm Vân

Những hình ảnh Đà Lạt xưa (Dalatcity.com.vn

Khi người Đà Lạt "Mơ mộng" với Đà Lạt

Bút ký: Khi người Đà Lạt "Mơ mộng" với Đà Lạt

(NTO) Không ai có thể nghĩ vào một ngày người phố núi lại đi tìm lại phố núi_những khoảnh khắc Đà Lạt xưa, để làm “sang” cho nơi ở, chỗ làm ăn của mình. Điều này đang như một cảm xúc ngầm của thị dân một vùng đất từng phong lưu mà bạn không khó để nhận ra khi la cà Đà Lạt bây giờ, mặc cho mọi đô thị cả nước đang cố sống nhanh, vội, gấp…

Đếm không hết nơi chỗ dùng ảnh xưa để treo thay tranh đâu, khi mà nó quá phổ biến ở thành phố này. Tôi hỏi chủ một quán nhậu bên hồ lắng Hồng Lạc sao lại treo những cảnh đô thị Đà Lạt xưa lên tường mà không thứ khác cho gần gũi ? Chủ quán rằng ảnh xưa thế này quán sẽ đặc sắc hơn, khách thích nhìn. Lấy đâu ra ảnh Đà Lạt xưa hay hè? “Đi mua anh ạ”, người chủ tự hào về thứ mình có. Ở một câu lạc bộ bida ở ngã Năm đại học, tôi hỏi những bức ảnh xưa rích về phố núi trên tường kia, ông chủ: “Chơi thế mới chơi!”. Khách sạn người ta treo thì khỏi nói rồi, cho du khách thêm khám phá Đà Lạt ngay chỗ lưu trú. Cà phê Mỹ Duyên trên đường Bùi Thị Xuân, tôi vẫn hỏi kiểu tương tự. Cô chủ quán khoe là ngày khai trương quán, có người đã mang nó đến để “Chúc mừng quán”. Tôi bảo sẽ tặng cô ảnh về Đà Lạt ngày nay được chụp kỳ công hơn, khung cảnh lạ hơn có nhận và thay cho những ảnh kia ? Cô cảm ơn tôi về nhã ý, nhưng bảo tôi giữ lấy mà treo.
Những biệt thự lưa thưa trên đồi nhìn xuống hồ nước ở Đà Lạt.
 
 
Khách sạn cũng không được xây cao tầng và không được chiếm ngự hết cảnh quan.
Kỳ lạ thật, con người ta bỗng một ngày yêu ký ức thế, Trời ! Tha nhân hình như luôn có nhu cầu muốn biết gốc gác của mình. Và nơi mình sống, cũng vậy. Mà xem lại ảnh xưa là như lật lại quá khứ, đập vỡ thời gian để nhận chân, cảm xúc, thăm viếng, “du lịch” ngay quê xứ xa xưa chăng. Ở thành phố này nó vốn mơ mộng, nên những cú chơi “khác người” cũng sang, đòi hỏi tri thức cao, sang và đẹp, hàn lâm và tinh tế. Có những điều thú vị của cuộc sống nằm ở chiều vi tế đơn giản.
Sách bán chạy đều nhất của nhà sách Phương Nam_nhà sách tiêu biểu nhất ở phố núi Đà Lạt những năm rồi là sách ảnh về “Đà Lạt xưa”(chứ không phải cuốn bút ký “Giã biệt hoang vu” của tôi!). Cứ có hình ảnh Đà Lạt ngày xưa là trước sau cũng hết, chả cần biết của Nhà xuất bản nào. Chồng sách cao ngất, ít ngày tạt vô nhìn lại, thấy chạm đáy. Sách chả có trang nội dung nào, mỗi trang là một bức ảnh ôm trùm, thi thoảng mới có một vài chữ dưới cùng. Từng trang như từng cuốn phim thu lại. Ông dân biểu sử học Dương Trung Quốc cũng làm sách ảnh về “Đà Lạt xưa” mà ông nhiếp ảnh Tam Thái,… ở tận Sài Gòn cũng làm “Ngày xưa Đà Lạt”. Người Đà Lạt đang như trong cơn nghiện “kí ức”.
Đà Lạt xưa là gì ? Là những gì thơ mộng vốn có của xứ sở, về những năm tháng đã đi qua. Là thiên nhiên êm ái, mong manh núi đồi mấp mô. Là khói sương bãng lãng. Là những rừng lá kim tinh khiết. Là những người Lạch thuần hậu hồn cốt núi rừng. Là những nhóm người xa lạ không thuộc chủng nòi ở cao nguyên Langbian xa lạ đi khám phá xứ sở sơn nguyên này. Những làng người sơn cước thuần hậu chưa bước ra với thế giới bên ngoài. Những làng lưu dân người Việt với nguyên xi lối ăn vận khăn đóng áo dài. Rồi dấu ấn đô thị cắm xuống để chuyển hóa nó bước thẳng sang cuộc đời “phố”. Thế là xuất hiện những đường sá đô thị núi mềm mại len lỏi theo lũng đồi. Là những biệt thự với thứ kiến trúc xa lạ tỉ mẩn và kỳ công của văn minh phương Tây thảnh thơi mọc lên những dải đồi lưa thưa thông. Là công trình cho người ở với chất liệu xây cất là xi măng, gạch đá, sắt thép xuất hiện trước sự ngơ ngác của cộng đồng bản địa chỉ gần gũi với thảo mộc. Rồi những đường sá láng cặn dầu mỏ(nhựa), dãy phố, công sở chính quyền, chợ búa, trường học, bệnh viện, thánh đường, nhà chùa, khách sạn, hội quán. Là những rừng thông nguyên vẹn, thác nước hoang sơ, những dòng suối êm ả… Ảnh càng về xưa là do người Pháp chụp, vì người Việt và người Lạch làm sao chế tạo ra được chiếc máy ảnh cũng như sở hữu được nó. Những bức ảnh tuyệt đẹp mà vô danh, vì hẳn những người làm sách sưu tập từ đâu đó nhưng không đủ sức tìm ra tác giả. Ảnh có rõ tên tác giả thì là của những nghệ sĩ nhiếp ảnh người Việt đầu tiên như Trần Văn Châu, Đặng Văn Thông, Nguyễn Bá Mậu, từ những năm 1950-1960... Tất cả đều đen-trắng. Nhiều ảnh cũ mờ vẫn cứ treo. Ảnh hữu danh làm thỏa tới cùng người xem rằng ai đã chụp được nó. Ảnh vô danh lại làm cái quá khứ của Đà Lạt hiện về huyền ảo, cảm giác mù xa hơn, thế giới ấy như không từng thật.
Những con đường đầu tiên được mở ra trên cao nguyên Langbian.
 
 
Hồ Cité Sant Bnoi (tức hồ Mê Linh) do Đặng Văn Thông chụp những năm 1950.
Bên quán cà phê cóc nằm gần Dalat Night Club xưa, vị trí ngày nào Khánh Ly hát và Trịnh Công Sơn hay đến nghe nhạc mình, lão nghệ sĩ nhiếp phong cảnh Đặng Văn Thông thường kể tôi nghe gần đây người ta hay tìm đến nhà ông ở trong Trại Hầm để mua ảnh Đà Lạt xưa về treo. Ông bảo không hiểu sao giờ nhiều người Đà Lạt đi tìm Đà Lạt xưa vậy. Họ nói với ông treo cho căn hộ mới cất, có người cho khách sạn, quán cà phê vừa mở, đi khánh thành nhà mới. Ông rằng đủng đỉnh kiếm 200-500-1triệu đồng cho mỗi bức ảnh đen trắng như thế. In mãi, mòn cả phim, mà cảm xúc về bức ảnh mỗi lần tác giả mang đi in vẫn rạo rực. Chỉ cần mang phim đi ra Mini Lab in lại là có tiền cà phê lai rai. Ông cũng có nghe đây đó người ta chụp lại ảnh của ông để mang đi rửa bán cho những chỗ cần treo “Đà Lạt xưa”. Có chỗ người ta để tên ông dưới ảnh, có chỗ không. Ông bảo tôi, “thôi kệ, miễn họ biết quí cái đẹp xưa của Đà Lạt đã hay, mừng rồi!”. Thời Đà Lạt còn mộng mơ nó đã làm nên tên tuổi Đặng Văn Thông với những bức hình nên thơ về một xứ sở. Với ông, mọi thứ ở Đà Lạt như chưa thành “hôm qua”, vàng son thơ mộng Đà Lạt chưa đi xa. Ông kể, nay có lần mang máy ra chụp lại những góc ảnh từng đứng, là thu vào máy mọi thứ biến đổi hoàn toàn, khung ảnh kia như chưa từng chụp ở đó, là một bức ảnh khác, về một xứ sở khác. Bậc trưởng thượng nổi tiếng làng nhiếp ảnh Đà Lạt này bảo phố núi ngày càng cạn kiệt vẻ mộng mơ, mỗi ngày càng rối tưng và nhố nhăng nên ông không muốn chụp nữa. Trong mắt ông nét thơ mộng của Đà Lạt ngày càng xa xỉ, dù đến giờ nền du lịch vẫn PR cho Đà Lạt về sự thơ mộng “như xưa” đó để sống. Du khách hình như cũng không muốn mất cảm giác về Đà Lạt như đã từng. Con người ta nhiều khi không phân biệt được giữa thật và ảo, quá khứ và hiện tại. Nhưng tôi lạ gì khối người lên Đà Lạt để mà ngồi đấy lôi cái “xưa” của nó ra để ngồi “nhậu” với cái “nay”.
Con người là một sinh vật nông nổi. Hung hăng đó mà yếu đuối đó. Cái đẹp nó “đánh” gục niềm kiêu hãnh, san bằng thực tại. Chỉ những bức ảnh đen trắng kia thôi mà làm mềm lòng họ. Chỉ đôi bức ảnh kia thôi mà kéo họ lùi về với lịch sử, với thuở ban đầu của một xứ sở mơ tưởng. Là dân phương đông, người Việt, với đặc trưng kiến trúc truyền thống là nhà trệt ba gian hai chái, nhưng họ vẫn mê say không gian sống kiểu Tây, rằng biệt thự, rừng thông, và hoa xứ lạnh Châu Âu. Họ thích Đà Lạt “sang” như Tây. Vì sao, vì hình như thiên nhiên lạnh Đà Lạt hợp với kiểu cách “Tây” đó. Và vì sao nữa, vì hình ảnh nhà và phố và đường sá rải ra như những nốt nhạc được viết hoàn hảo và có trách nhiệm với Mẹ thiên nhiên. Và sao nữa, là đô thị không hình thành mà như thả lỏng hết người ra, thuận theo tự nhiên, không chia theo kiểu bàn cờ. Là gì nữa, là thành phố thông minh xuất hiện ngay từ đầu thế kỷ trước, phố trong rừng, rừng trong thành phố, “đô thị sinh thái” cái mà thế giới bây giờ đang xem là “triết lý” cho đô thị, mọi thành phố phải hướng đến, để con người có an lạc thật sự.
 
Chiếc xe hơi đầu tiên ở Đà Lạt.
 
 
Trường Lyceé Yersin một trong 1.000 công trình kiến trúc đẹp nhất thế kỷ 20
do Hiệp hội kiến trúc thế giới chọn và không gian hồ Xuân Hương.
So với Saigon, Hà Nội, Huế, thì Đà Lạt là thành phố nhỏ nhưng đố thị dân ở thành phố nào có suy nghĩ trong đầu người Đà Lạt là “người tỉnh lẻ”. Đà Lạt là trường hợp ngoại hạng. Nó ngoại hạng nhờ cốt cách “Pháp” toàn diện từ đầu của nó. Pháp là dân tộc bậc thầy thế giới về tổ chức không gian đô thị chạm vào cái tinh túy, văn minh phổ quát nhất. Nó ngoại hạng vì là thành phố duy nhất trên đất nước này có ngày sinh tháng đẻ rõ ràng người ta lấy ngày giờ ông Bác sĩ A.Yersin đặt chân tới nó và bàng hoàng trước thiên nhiên nơi này để rồi đề xuất xây dựng thành phố; là từ khi ra đời đến hình thành có đường hướng, tuân theo ý tưởng, có kịch bản, qui hoạch tử tế, chứ không phải như bao thành phố tỉnh lỵ ở Việt Nam là do quá trình quần cư mà hình thành. Khi lao vào tìm ký ức, chơi ảnh xưa, người phố núi không quên có vị Việt kiều từ Mỹ về mở cả một cuộc triển lãm ảnh Đà Lạt xưa ở một khách sạn 4 sao. Ông nghị sử học Dương Trung Quốc kia còn thay mặt mang cả một khối ảnh của một cơ quan trực thuộc Hội khoa học lịch sử Việt Nam sưu tập được về Đà Lạt thuở ban đầu vào để triển lãm dưới rừng thông Đà Lạt bữa nào. Ảnh đặt trên giá vẽ như tranh, với xung quanh là kiến trúc Pháp, hoa, gió, nắng, cùng cái lạnh của Đà Lạt. Dĩ nhiên người xem thì nườm nượp rồi. Họ chờ có thế mà.
Nào riêng người Đà Lạt đâu, Tiến sĩ nghệ thuật học Yến Chi, một người Hà Nội lập nghiệp ở Sài Gòn, cũng là người đóng vai Nam Phương Hoàng Hậu trong bộ phim “Ngọn nến hoàng cung”, hôm nọ rong chơi Đà Lạt cũng cố dạo quầy sách ở trung tâm phố núi để tìm cho được một tập sách ảnh về Đà Lạt xưa. Chị lật từng trang ngắm say đắm những góc cảnh Đà Lạt xa xưa, mà không để ý gì bạn bè ngồi chờ thừ cả người. Tôi hỏi chị sao không ngắm Đà Lạt nay bằng xương bằng thịt, đang “sống” sờ sờ ra đấy. Chị bảo: “ Nó không đẹp, lung tung, bừa bãi. Ngắm không sướng !”…
Yến Chi bảo yêu Đà Lạt vì “Xứ này vẫn cứ hay, và hiền!”. Thiên nhiên Đà Lạt quá vĩ đại đến độ dù hung bạo và dốt kém đến mấy thiên hạ cũng chưa đủ sức để làm xấu hết nó nhanh. Những giá trị đô thị, phẩm cốt “Tây” rơi rụng, hay khí hậu nóng dần vẫn không làm Chi hết say sưa Đà Lạt. Mà lên Đà Lạt, có chán nhìn hình hài phố ngày nay thì Chi vẫn còn tập ảnh Đà Lạt xưa vừa mua được.
Bà con phố núi kìa, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp cũng vừa mang một khối lượng ảnh đồ sộ về Đà Lạt sang để triển lãm cho bà con xem đó, ngay giữa trung tâm Hòa Bình. Chính quyền đương cục ta vừa trân trọng làm kỷ niệm 120 năm Đà Lạt hình thành. Họ cũng vừa sang Pháp mời chuyên gia người Pháp sang qui hoạch lại và định hướng tương lai phát triển cho Đà Lạt, vì như bạn tôi, Kiến trúc sư Trần Đức Lộc hiện đang nắm quy hoạch ở sở Xây dựng Lâm Đồng thì thành phố này chỉ duy nhất một con đường bản sắc là phải mang lấy cốt cách “Tây”, linh hồn như đã từng.
Có lần người bạn quí về nhà mới, tôi mang tặng bạn hai tấm ảnh, một “nay” và một “xưa”. Ba ngày sau ghé lại, chỉ còn bức ảnh Đà Lạt xưa là bạn để trên tường..
*Ảnh do tác giả cung cấp.

25 Ca Khúc Ngoại Quốc Lời Việt

Giới thiệu 25 Ca khúc Ngoại quốc lời Việt
1.Anh Là Tất Cả - Ý Nhi
 2.Ái Ân Lần Đầu - Elvis Phương
 3.Cám Ơn Em - Jo Marcel
 4.Cho Quên Thú Đau Thương - Elvis Phương, Thanh Mai
 5.Chủ Nhật Tươi Hồng - Minh Xuân, Minh Phúc
 6.Cuộc Tình Tàn - Ngọc Lan
 7.Đỉnh Tuyết Cao - Jo Marcel
 8.Donna - Mai Khôi
 9.Đồng Xanh - Johnny Dũng
 10.Đừng Phá Vỡ Ân Tình - Ngọc Lan
 11.Giấc Mơ Cali - Jo Marcel
 12.Giờ Còn Chi Đâu - Jo Marcel
 13.Hỡi Em Yêu - Jo Marcel
 14.Khi Nào Đây - Jo Marcel
 15.Làm Sao Em Biết - Julie
 16.Một Thời Để Yêu - Mộng Thi
 17.Mùa Thu Chết - Julie
 18.Nắng Đã Tắt - Ngọc Lan
 19.Sayonara - Ngọc Lan
 20.Tình Hận - Tuấn Ngọc
 21.Tựa Vai Anh - Jo Marcel
 22.Tuyết Rơi - Ngọc Lan
 23.Trái Tim Hững Hờ - Sĩ Phú
 24.Vũ Nữ Thân Gầy - Khánh Ly
 25.Yêu Em Bằng Trái Tim Anh - Vi Vân
 

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2015

Làm sao viết đúng dấu "Hỏi - Ngã" ?

Làm sao viết đúng dấu "Hỏi - Ngã" ?
Viết cho đúng hỏi ngã là một vấn đề không đơn giản, làm nhức đầu một số người, đồng thời lại quá dễ dàng đối với một số người khác.
Có người không biết tại sao chỉ có hai dấu mà mình không làm sao nhớ được, người khác lại không thể tưởng tượng được lại có loại người không nhớ nổi hai dấu này.
Người khác không cần thắc mắc, chỉ dùng một dấu, tới đâu thì tới, do vốn dễ dãi với mình, nghĩ rằng chắc không sao đâu, ai mà để ý. Vốn không chuyên môn về ngôn ngữ học- viết hỏi ngã còn chưa thông-nhưng thấy các sách chưa nói ra hết các khó khăn của hỏi ngã, vì đa số viết theo nhãn quan của người miền Bắc, quá rành về chính tả. Khi dạy Toán, người học toán dở thường dạy hay hơn những thầy quá giỏi về toán, vì họ hiểu rõ những sự khó khăn, chật vật của học trò.
Bài này viết, theo cái nhìn của phương Nam, một phần dựa theo các thắc mắc do thân hữu đề ra, là bài khởi đầu trong số nhiều bài về thanh điệu tiếng Việt.
Vấn đề: Viết sai hỏi ngã vì là dân trường Tây
Nhiều người cho là tại vì học chương trình Pháp nên viết tiếng Việt sai chính tả.
Giải thích: Các nhà văn tiền chiến, như nhóm Tự lực văn đoàn, ai mà không học trường Tây, thế mà họ viết tiếng Việt đâu có sai. Vậy không phải chỉ có Tây, mà cả Ta cũng thế.
Vấn đề: Chữ thông thường dùng hằng ngày mà cũng viết sai
Nhiều từ, nghe hằng ngày cả chục lần, nói hằng trăm lần, đọc hằng chục lần, viết hằng mấy lần, bị sửa sai hằng ngàn lần mà chứng nào tật ấy, sai vẫn cứ sai hỏi ngã.
Giải thích: Tại sao tiếng Anh, tiếng Pháp chữ nào cũng dài thoòng, âm tiết kỳ lạ, nói giọng khịt mũi (Pháp), ưỡn ẹo như bóng (giọng Ăng lê), cà giựt như xe thổ mộ (giọng HongKong), cà xịt như xe lửa chạy (giọng Nga), rồ rồ trong cổ họng như bị hen suyễn (giọng Bắc Mỹ), líu lo dính cả lưỡi (giọng Japan trong phim Monkey magic), giọng Si Hà Nút của một số vùng VN, mà ít khi quên, trong khi chỉ có hai dấu quèn mà không nhớ. Thế nghĩa là thế nào?
Lý do là tiếng Anh Pháp không có dấu, chỉ cần nhớ âm tiết, vì thế còn ráng nhớ được, còn hỏi ngã thì chỉ khác tần số, mà tần số có thể bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố, nên rất khó nhớ, phải nói là không thể nhớ nỗi mới đúng.
Vấn đề: Học càng cao càng dốt hỏi ngã
Giải thích: Chính tả là môn bắt buộc ở tiểu học, nên ai cũng phải ráng nhớ, không nhớ thì bị ăn hột vịt lộn, nhưng khi lên Trung Học và Đại học vì còn rất nhiều môn khác để học, nên chính tả trở thành thứ yếu, nhất là hỏi ngã. Chính cả mấy thầy môn Văn không chấm điểm hỏi ngã, nên học sinh từ từ quên hết vốn liếng ở Tiểu học. Lên Đại học lại càng thoải mái hơn nữa. Tiến sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư và cả giáo sư, không-Bắc, mà viết không chính tả, và nhất là sai hỏi ngã, mới là điều kỳ lạ. Vài công ty ở Saigon, khi tuyển người, bắt làm đơn viết tay để kiểm soát chính tả. Viết sai chính tả là cho vào thùng rác vì bị nghi ngờ về trình độ. Như vậy là chỉ có người Bắc, người mới vừa học hết tiểu học là được hưởng lợi, còn dân khác tốt nghiệp Đại học coi như ra rìa. Công ty có cơ bị sập tiệm vì nhận người không đủ trình độ.
Vấn đề: Không thể nhớ được hỏi ngã.
Vì không nhớ hỏi ngã nên có người cho mình có trí nhớ kém; có người cho là bộ nhớ (memory) của mình bị trục trặc, không chịu lưu giữ dữ kiện; có người cho là tại già trở nên lù khù; có người nghi ngờ mình mắc bịnh si khờ người già.
Giải thích: Không nhớ không phải tại mình già, mà tại vì hỏi ngã quá phức tạp không một ai có thể nhớ hết được, trừ phi là người Bắc. Có lời khuyên các bạn, nhớ được tới đâu hay tới đó, nhưng đừng cố gắng thái quá có cơ đi nhà thương Chợ Quán.
Vấn đề: Sách chỉ dẫn hỏi ngã có giúp ích nhiều không?
Giải thích: Hài thanh để viết đúng các từ láy được một nhà thơ tóm tắt bằng hai câu thơ sau đây:
Chị Huyền vác nặng ngã đau
Anh Sắc không hỏi một câu được là.
Chỉ có 4 từ mà phải đặt thơ để nhớ, thế thì hằng trăm, có thể lên cả ngàn từ khác, thì phải giải quyết như thế nào đây, chẳng lẽ phải đặt thơ kiểu Lục Vân Tiên?
Khi đã nói đến mẹo tức phải ngắn gọn, chớ viết nguyên cả một cuốn sách vài trăm trang để chỉ dẫn hỏi ngã cho thiên hạ thì còn gì là mẹo, sách nghiên cứu thì có. Người viết sách qui tắc hỏi ngã không thấy được cái khó khăn của người miền Nam, không biết được phương pháp tân tiến để học một sinh ngữ, không am tường phát âm miền khác, nên nêu ra hằng lô qui tắc, hằng trăm từ có hỏi ngã phải học thuộc lòng, và tin rằng ai cũng nhớ được.
Không ai có thể nhớ được nhiều như thế. Cứ cho là nhớ được đi, nhưng nhớ được bao lâu, vài ngày hay vài tuần?
Vấn đề: Software sửa chính tả ra sao?
Giải thích: Có khá nhiều software khá hay để sửa chính tả tiếng Anh, nhưng có rất ít cho tiếng Việt- có thể đếm được trên đầu ngón tay. Hơn nữa lại không đáng tin cậy lắm vì nhiều từ sửa trật lất, có lẽ có ít chuyên gia chú trọng đến tiếng Việt, hay cho tiếng quá dễ học, học chừng hai tháng là viết được ngay, nên không cần ba cái phần mềm lỉnh kỉnh này.
Vấn đề: Dùng tự điển để tra hỏi ngã được không?
Tự điển cũng không 100% chính xác. Có khi cùng một từ mà tự điển này viết khác tự điển kia. Tự điển, kể cả tự điển do chính quyền phát hành, thiếu các từ được cho là địa phương (miền Nam, Trung), các từ kỹ thuật hiện đại, các tiếng lóng, các tiếng Tây, từ Internet, phone text, phim tập… Tự điển cũng chỉ là một trong những phương tiện để viết chính tả, nhưng tự điển cũng không thuận tiện cho lắm, vì quá chậm, cứ viết một chút lại phải tra tự điển mất hết mươi phút, như thế đâu còn hứng mà viết.
Vấn đề: Cứ theo giọng nói mà viết hỏi ngã.
Có người cho rằng viết hỏi ngã rất dễ, cứ lần theo giọng người ta nói, từ nào lên giọng là dấu ngã, từ nào xuống giọng là dấu hỏi.
Giải thích: Nhưng làm thế nào khi viết luôn luôn có người đứng kề bên để nhắc tuồng, không lẽ mình đi đâu cũng có một ông kè kè đi theo như mật vụ? Mà ai nhắc? Ông này là người Trung hay Nam thì không khá hơn.
Vấn đề: Hỏi và ngã khác nhau ra sao?
Giải thích: Ít ai phân biệt rõ ràng hỏi ngã khác nhau như thế nào. Đi hỏi mấy ông bạn thân người Bắc thì mỗi người trả lời một khác. Các đồ biểu diễn tả thanh sắc phát xuất từ miền Bắc cũng không cho ta một ý tưởng nào rõ ràng, vì rất lờ mờ, sai sót, và mỗi nơi trình bày một khác. Các mẫu ghi âm giọng nói từ Internet thì cũng không đem đến kết quả khả quan cho lắm, vì khác đây là phát âm lý tưởng, chỉ có trong một nhóm nào đó trong quá khứ, khác với phát âm hiện tại của người Hà Nội cũ và mới. Đa số cho rằng tiếng có dấu (~) thì có âm dài và cao, tiếng có dấu (?) âm ngắn và gọn.
Dấu ngã là falling-rising tone, nghĩa là tần số giảm xuống thấp, để rồi trồi lên cao hơn cả sắc, nên thanh sắc bắt buộc phải lơ lửng coi như không dấu. Dấu ngã có cuối tăng cao và creaky, hơi khác dấu hỏi miền Nam vì dấu này ngắn và thấp hơn sắc.Thí dụ bã phát âm đúng phải là bà a ạ Á (creaky, đột ngột dừng lại và âm độ to lên). Thanh ngã kiểu này có thể là rất hiếm vì dò hỏi mấy anh bạn thân người Bắc thì người nào cũng ngơ ngác.
Dấu hỏi miền Bắc là low falling-rising tone nghĩa là từ thấp (huyền) xuống thấp hơn nữa rồi bật lên một chút. Tần số thấp thì phải phát âm từ trong cổ họng nên cường độ quá nhỏ, coi như cái đuôi bị nuốt mất. Vì rất khó phát âm và không đủ thời giờ kéo dài nên thanh hỏi nghe gần như nặng. Bị lấn chỗ, nặng phải trồi lên trở thành không dấu.
Thanh bả, đúng phát âm lý tưởng miền Bắc, phải là bà ạ á, nhưng đa số phát âm thành bạ. Câu “Ông từ Tư tự tử” nghe gần như là “Ông tư Tư tư tự”. Xáo trộn hỏi ngã không thay đổi nghĩa Khi người Bắc nói, nhiều từ có thể bị đổi tông. Nếu lên giọng là ngã, xuống giọng là hỏi, vì bị ảnh hưởng bởi các âm đứng kề bên, bởi tâm trạng người nói. Vui hay buồn, nghiêm trọng hay thư thả, thủ thỉ thì thầm hoặc la hét, đều có ảnh hưởng đến âm điệu, và như thế làm ảnh hưởng đến độ trầm bổng của tiếng nói. Hơn nữa, các thanh điệu miền Bắc hiện nay đều lơ lửng, nên có thể biến đổi y như tiếng BK, nghĩa là hài thanh, chẳng những áp dụng cho từ láy, mà còn áp dụng cho hầm bà lằng thứ khác.
Phần đối thoại dưới đây nghe lỏm được, xin đừng sửa chính tả vì cố ý viết theo giọng nói, dấu ngã là lên tông, dấu hỏi là xuống tông.
Ăn trộm, nói khẽ với đồng bọn, xuống giọng: Mầy có mang theo cái xà beng để mở cổng không hả?
Bà chủ nhà la lên: Thằng nào muốn mỡ cỗng nhà bà thế hỡ?
Đòi nợ, lên giọng: Mày có trã tiền cho tau không hã?
Con nợ xuống giọng năn nỉ: Đại ca cho em mai trả được không hả?
Buổi sáng vợ nói với chồng: Cởi tã cho con rồi chữa?
Tối lửa tắt đèn, vợ nói với bồ: Muốn cỡi thì cởi nhanh lên, làm gì như là rùa vậy hã?
Bồ: Khẻ chứ, cởi nhanh thế nào được nhẻ?
Phân biệt hỏi ngã không cần thiết
Lý do duy nhất được nêu ra, để bênh vực cho việc duy trì hỏi ngã, là chúng làm phân biệt từ này với từ kia, như lẽ khác lẻ, bả khác với bã. Lập luận này xem ra không vững chắc cho lắm, vì nói sai hay viết sai hỏi ngã người ta vẫn hiểu.
1. Nói:
Ngay cả miền Bắc cũng phát âm khác nhau, dân Hà nội xưa khác Hà Nội nay, dân không-Ha nội lại khác dân Hà nội, Hà nội di cư khác Hà nội xưa… Không thể bắt người ta viết theo một nhóm nhỏ dần dần bị tuyệt chủng (theo cuộc khảo sát của Edmondson, chỉ có 50% dân miền Bắc nói đúng hỏi ngã).
Hỏi ngã không cần thiết vì dân Hànội nói người không-Hà nội vẫn hiểu, mặc dầu hỏi ngã phát âm khác nhau. Lý do là một từ sẽ làm sáng tỏ bằng các từ kế bên, như trường hợp chữ viết. Người miền Nam, chỉ dùng thanh hỏi gần như thanh ngã, nói chuyện người Bắc có hiểu không? Vẫn hiểu như thường, có khi còn hiểu rõ hơn khi nghe vài vùng ở miền Bắc, như nghe dân đảo Cát bà, người Bắc di cư nghe dân Hànội ngày nay. Nhớ lại hồi xưa khi học lớp năm, khoảng 1948, thì đã có bạn thân là người Bắc, con của dân Bắc kỳ 30 cạo mủ cao su. Tụi này nói chuyện với nhau rất bình thường, không một ai nói là không hiểu, và cũng không phân biệt Bắc hay Nam, chỉ hơi lạ là có một thằng bạn nói N thành L và ngược lại, tuy lạ tai nhưng vẫn hiểu như thường. Hỏi quê ở đâu thì trả lời là Hải Dương, ngày nay mới biết là ở vùng biển người ta hay nói như thế. Xem ra nói lộn xộn hỏi ngã cũng không sao.
2. Chữ viết:
Nếu viết sai hay cố ý xáo trộn hỏi ngã thì người ta có hiểu không? Vẫn hiểu như thường vì khi đọc, ta không mò từng chữ, nghiên cứu từng dấu một, mà lướt thật nhanh và bộ óc tự động đón nhận các thông tin. Đọc một chút là chúng ta nhập thần, hòa mình vào trong bối cảnh, vào các diễn biến, vào các nhân vật, và quên hết sự việc xung quanh, đôi khi tưởng mình là nhân vật chính. Nếu đọc mà chú ý đến chính tả, văn phạm, hỏi ngã, chấm câu thì sẽ bừng tỉnh ngay lập tức.
Xin giải thích một cách tỉ mỉ hơn tùy theo từ đơn, từ kép hay câu.
Từ đơn: Đúng là hỏi ngã sẽ làm phân biệt từ đơn với nhau. Bả khác bã, bảo khác bão, bẩy khác bẫy, bỉ khác bĩ, bổng khác bỗng, võ khác vỏ, đẻ khác đẽ, kĩu khác kỉu, đã khác đả. Nhưng sự phân biệt này không thật cần thiết vì:
- Từ láy, không mang một nghĩa nào cả, thì cần gì phải phân biệt hỏi với ngã?
- Từ đơn chỉ có một trong hai dấu cũng không cần phân biệt. Ta thấy có từ phở nhưng không có phỡ, có từ giữ nhưng không có giử, có phẫu nhưng không phẩu, có cả nhưng không cã, có tủy nhưng không tũy. Vì chỉ có một dấu nên nếu có viết sai cũng không làm cho nhầm lẫn được với cái gì khác được.
- Từ đơn ít khi được sử dụng đơn lẻ, trừ trường hợp như bảng chỉ đường cần phải vắn tắt như Ngừng, Đi, Chạy, hoặc là từ đơn trong tự điển Việt Anh, mà lỡ có viết sai hỏi ngã, cũng không nhầm lẫn được vì đã có tiếng Anh kề bên. Hồi xưa, thỉnh thoảng tại ngã tư có bảng “ Được phép quẹo phải khi đèn đỏ” dài loòng thoòng. Thắc mắc sao lại viết quá dài trên một bảng chỉ đường bé tí teo-không có trùng ngôn hay trùng ngữ, kể cả khi viết “sông Hồng Hà”, như một học giả gạo cội đã nêu ra. Khi có dịp sẽ bàn đến.
-Được chớ, “Đèn đỏ được quẹo phải”.
-Có thể thu gọn hơn “Đỏ được quẹo phải”, mà không sợ nhầm lẫn vì tại ngã tư thì chỉ có đèn mới đỏ thôi.
-Có thể ngắn hơn chút nữa không?
-Được chớ, “Được quẹo phải”, vì đèn xanh là đương nhiên, còn đèn đỏ là được phép, cả hai trường hợp đều đúng.
-Có thể thay đổi chút xíu nào nữa không?
-Được, “Được quẹo phãi”, vì chỉ có một từ mang dấu hỏi nên lỡ có viết phãi cũng không sợ nhầm lẫn với cái gì khác.
Dùng dấu hiệu thì gọn nhất
Bàn ra hơi xa, xin tiếp tục vấn đề còn đang dở dang.
Từ ghép: không cần phân biệt hỏi ngã, vì không thể nhầm lẫn được nhờ vào từ ghép, mà các từ này chiếm đa số, khoảng 95% tiếng HV và 70% tiếng Nôm. Bả chuột, nếu có viết sai thành bã chuột đi nữa, thì làm thế nào nhầm với bã mía cho được. Tương tự, bảo bối khác giông bão, đòn bẩy khác bẫy thú, thô bỉ khác bĩ cực, bổng lộc khác với bỗng nhiên, con đỉa khác cái đĩa, máy đẻ khác đẹp đẽ.
Cũng có trường hợp, nhưng rất hiếm, là từ ghép nói sai sẽ làm lẫn lộn với từ khác, như chẳng lẽ và chẵn lẻ.
Câu: hỏi ngã không cần thiết vì toàn bộ sẽ bổ túc cho nhau.
Câu “chẳng lẽ anh ta chơi chẵn lẻ” dẫu cho có đổi thành “chẵn lẻ anh ta chơi chẳng lẽ” thì tin chắc là ai cũng hiểu được.
Mỗi từ sẽ được làm cho rõ ràng hơn nhờ từ kề bên, nhờ vào một phần hay nguyên một câu. Viết không dấu trên Internet còn ráng đọc được, huống hồ là chỉ sai hỏi ngã.
Viết sai âm thì khác. Nói “en không en tét đèn ngầu chừa thượng đứa” thì không ai hiểu gì cả. Cứ thử tưởng tượng chữ QN, dùng để ghi phát âm của dân miền này, được công nhận là chính thức thì việc gì sẽ xảy ra? Ai viết “ăn không ăn tắt đèn ngồi chờ thượng đế” sẽ bị không điểm vì sai chính tả.
Chúng ta không phủ nhận là hỏi ngã nâng cao tính phân biệt từ đơn và một dấu đứng đơn lẽ, nhưng tính phân biệt này không thật cần thiết, đồng thời chính nó làm cho rất nhiều người, không-Bắc, viết sai tùm lum.
Đó là lý do tại sao hỏi ngã khó nhớ hơn âm tiết.
Tự đào thải
Thanh hỏi low falling-rising của dân không-Hànội từ từ sẽ biến mất và trở thành thanh nặng như dân Hànội, vì trong cuộc sống quá bận rộn, dân số càng ngày càng đông, sinh hoạt phải tăng tốc, nói phải nhanh mới kịp đà, không có đủ thì giờ để kéo dài nên phần đuôi ngóc lên sẽ biến mất. Và chính thanh hỏi trầm này đến lượt mình cũng biến dạng thành hỏi bổng vì nhiều nguyên nhân như sau:
- Tuy là phân biệt được với ngã nhưng lại trùng với thanh nặng, được đường này mất đường kia. Thay vì có 6 thanh, rốt cuộc chỉ còn lại 3 hay 4 thanh, ít hơn miền Nam.
- Hỏi trầm mới nghe thì cũng bình thường, nhưng nghe lâu có cảm tưởng người nói bị mệt mỏi, thiếu hơi.
- Người Bắc ngày nay có khuynh hướng dùng hỏi bổng, nếu họ có tiếp xúc thường xuyên với miền Nam. Chỉ có người Bắc di cư cố cựu, người Bắc chưa vào Nam còn xài hỏi trầm.
- Người trẻ Bắc lớn lên ở miền Nam hay ở nước ngoài sẽ không phân biệt được hỏi trầm với ngã, mà thay bằng vào đó bằng hỏi bổng. Các em này có giọng nói lai, nghĩa là một chút Bắc, một chút Nam (có các âm R, Tr, W, Y đầu từ), một chút Tây (nói các âm Fl, Bl, Dr…quá dễ dàng), nghe rất lạ tai, ngộ nghĩnh, dễ thương, và không giống ai. Các bạn có thể kiểm chứng lại bằng cách nghe các câu trả lời, bằng tiếng Việt, trong các cuộc phỏng vấn ca sĩ trẻ hay các cô thi hoa hậu.
- Khi muốn biểu diễn 6 thanh tiếng Việt thì hỏi bổng được sử dụng thay cho hỏi trầm, chứng tỏ có cái gì không ổn trong hỏi trầm. Nếu chỉ còn thanh ngã thì cần gì phải phân biệt hỏi ngã?
Giọng chuẩn
Quan niệm chung cho rằng dân Nam Kỳ thì bê bối nhất, Trung Kỳ thì còn khá một chút, chớ Bắc Kỳ thì hoàn hảo trong việc sử dụng hỏi ngã. Vì giọng của người ta khi sinh ra vốn đã “chuẩn” rồi nên viết đúng chính tả. Nhưng thế nào là chuẩn?
-Chuẩn là nói đúng. Không có phát âm nào đúng và cũng không có phát âm nào sai. Đúng hay sai là phải có cái gì làm chuẩn để có thể so sánh. Người Bắc dùng rất nhiều từ Hán Việt trong khi miền Nam chỉ dùng tiếng Việt, và không có tiêu chuẩn nào để cho là từ HV đúng hơn tiếng nước ta. Bình Nguyên Lộc viết rằng từ HV chỉ là tiếng Tàu nói sai giọng. Đúng vậy, Pejing nói sai giọng thành Bắc Kinh, Zhongguò thành Trung Quốc hay Chzung Quốc, Yuènàn thành Việt Nam, Paris thành Bá le.â
-Chuẩn là phân biệt rõ ràng các âm, nghĩa là ít từ đồng âm khác nghĩa. Miền Bắc có nhiều âm tiết nên ít từ đồng âm, nhưng không có nghĩa là chuẩn hơn tiếng Hán, tiếng Nhật. Mỗi âm tiết tiếng các nước này có rất nhiều từ đồng âm, có từ có hơn một trăm từ đồng âm như từ “Yi” tiếng Hán có khoảng 170 từ đồng âm, thế mà khi nói hay viết thì họ vẫn hiểu nhau được. Đó là nhờ cách dùng từ ghép và viết dính lại trong phiên âm Latin để ghi tiếng Trung Hoa, tiếng Nhật.
-Chuẩn là phổ biến nhất nghĩa là có tỉ số dân nói nhiều nhất. Phát âm ở đảo Cát Bà, ở bờ bể Tuy Hòa, ở xứ Quảng khá đặc biệt, ngay cả dân bản địa cũng không hiểu nỗi, không thể dùng để làm tiêu chuẩn cho tiếng Việt, không phải vì sai, mà vì có quá ít người sử dụng.
Nếu thế thì phát âm miền Nam đúng tiêu chuẩn nhất, vì phát âm miền Bắc chiếm độ 30%; miền Thanh Nghệ Tĩnh chừng 15%; miền Nam chiếm 55%-trải dài từ Nha Trang đến Cà Mau. Nói miền Nam chuẩn hơn thì hơi lộng ngôn một chút. Chuẩn phải là một cái gì khác.
-Chuẩn có nghĩa là được chính quyền công nhận. Điều này không có gì để bàn cãi vì có người viết rằng phân biệt dấu hỏi với dấu ngã là qui tắc chính tả Việt ngữ thống nhất trên toàn quốc.
Tại sao chỉ có dân miền Bắc viết đúng? Ai có thẩm quyền quyết định hỏi ngã?
Đây là vấn đề mấu chốt nhưng ít ai nói đến vì vô tình không biết, hay cố ý tảng lờ.
Không phải người Bắc viết đúng chữ QN, mà chữ QN được sáng tác theo phát âm miền Bắc, ngoại trừ các âm R, Tr, S. Vì thế, chữ QN thiếu các âm W, J, phụ Y đầu từ.
Không phải sắc lệnh, không phải tự điển chính thức, mà phát âm miền Bắc được dùng làm tiêu chuẩn cho chữ QN.
Bất kể là họ nói như thế nào, đúng hay sai, chữ QN đều phải viết theo y chang như thế. Thí dụ Washington, nếu ta viết đúng âm W như Wa Thịnh Đốn, là viết sai chính tả. Còn nếu ghi sai W thành H như Hoa Thịnh Đốn, thì lại đúng chính tả.
Hawaii, nếu ghi đúng Ha wai yi là sai chính tả, còn ghi sai Ha oai di là đúng chính tả, thế mới kỳ. Ngay cả tiếng Nôm cũng thế, nếu viết đúng ngả chúi là sai chính tả, còn nếu viết sai thành ngã chúi thì lại đúng chính tả, vì tự điển dùng dấu hỏi cho nghiêng ngả, ngả nón nhưng dùng dấu ngã cho ngã chúi, ghi đúng theo phát âm lên giọng. Cả lũ nhưng lủ khủ, dỡ hổng nhưng dở bổng là thí dụ khác.
Ngoài ra có nhiều từ miền Nam bị sửa lại cho đúng phát âm miền Bắc như mắc cở thành mắc cỡ, cù lủ thành cù lũ, lũ khũ (viết lủ khủ cũng đúng).
Và có hằng trăm từ bất chợt đổi tông như thế, ba hồi xuống giọng thành hỏi, ba hồi lên giọng thành ngả, không theo qui tắc nào cả, cho đã cái miệng của mình nhưng làm khổ cho cái đầu của người khác.
Người Nam và Trung, viết theo phát âm của mình, khác với miền Bắc, nên thường viết sai. Nếu cố gắng thì khá một chút nhưng phần đông viết mò quờ quạng y như hiệp sĩ mù điếc đi trong mua gió. Viết trật chính tả là chuyện tự nhiên, viết đúng mới là chuyện hi hữu.
Người Bắc viết “Cô Lan lang thang, mới tám tuổi tủi thân khóc ầm ĩ, âm ỷ bỏ ngõ bừa bãi nhà cửa” vì họ nói y chang như thế “Cô La-nờ la-ngờ tha-ngờ, mới tám tu-ụi tuị thân khóc ầm í, âm ỵ bọ ngó bừa bái nhà cựa”. Trong khi đó, người Nam viết “Cô Lang lang thang, mới tám tủi tủi thân khóc ầm ỉ, âm ỷ bỏ ngỏ bừa bải nhà cửa”, nói thế nào là viết thế ấy.
Thế tại sao dân miền Nam không dùng dấu ngã mà dùng dấu hỏi?
Lý do là người Nam phát âm hỏi hay ngã như nhau nên chỉ dùng một dấu. Chỉ dùng dấu hỏi vì liền sau câu hỏi là dấu (?), nên họ viết “hỏi” với dấu (?), một cách đúng logic, và các dấu ngã đều biến thành hỏi. Người Trung phát âm thanh hỏi và ngã thành nặng nên dùng dấu hỏi y như người Bắc.
Chữ viết không được phổ biến
Một ngôn ngữ hay chữ viết muốn được phổ thông thì trước tiên là phải dễ học, dễ nhớ, lâu quên, sắc tộc nào nói cũng nói được, có thể nói nhanh (để lồng tiếng cho kịp), bắt chước dễ dàng tiếng Anh Pháp (để nói cho cho đúng giọng). Ngôn ngữ phong phú là do từ chính xác, phân biệt, rõ ràng, cấu trúc mạch lạc, chứ không phải là do sử dụng hỏi ngã quá phức tạp, gây phiền phức cho hơn 70% tổng số dân của một nước- muốn biết hỏi ngã khó cỡ nào, xin xem các bài kế.
Chữ Đại Hàn thay thế chữ Hán; chữ giản thể của Trung Quốc; tiếng Pháp bị tiếng Anh lấn lướt vì quá phức tạp, là các gương sờ sờ trước mắt, mà sao không thấy.
Khi viết người không-Bắc chỉ dùng có nữa bộ óc, phần còn lại dùng để kiểm soát dấu, như thế đâu còn hứng để mà viết. Viết như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam vừa hay vừa không sai chính tả thì bộ óc chắc phải có gì đặc biệt.
Viết đúng chính tả là làm đẹp hình thức
Có người viết chỉ có hình thức, đúng chính tả, đúng chấm câu, chơi chữ, vòng vo tam quốc, khó hiểu vì dùng từ chuyên môn- một cách vô tình hay cố ý- để không ai hiểu được muốn nói cái gì, nhưng nội dung rỗng tuếch.
Nếu viết cho bạn bè thân hay vợ con trong nhà đọc thì muốn vẽ rồng rắn gì cũng được, ngược lại nếu viết cho người khác đọc thì phải rất thận trọng, trong chính tả nói chung và hỏi ngã nói riêng. Nếu không sẽ bị phê bình là có mác Tiến sĩ, Thạc sĩ hay Bác sĩ mà viết trật chính tả. Các bài viết, biên khảo, nghiên cứu dù có công phu cách mấy cũng mất một phần giá trị đi.
Đúng là rừng hỏi ngã hỏi ngã
Quí vị trường Tây thì nên viết bằng tiếng Anh Pháp coi bộ dễ hơn rồi chịu khó tìm người chuyển dịch chữ Việt.
Không có chữ nước nào, kể cả Anh, Pháp, Ấn, Campuchia, Thái Lào, và cả chữ Hán tượng hình, khi viết cứ mươi phút lại phải dùng tự điển kiểm tra hỏi ngã. Và cũng không có chữ nước nào, càng học cao lại càng dốt- tốt nghiệp Đại học viết thua người có trình độ tiểu học.
Cách viết đúng chính tả: Trong khi chờ đợi sự cải cách, có thể viết đúng hỏi ngã bằng cách
-Áp dụng qui tắc không sắc hỏi, huyền nặng ngã cho từ láy. Nhưng với từ láy nào là cả một vấn đề, nếu kết hợp không đúng sẽ viết sai. Thí dụ rõ ràng, ro rõ, lảng ồ, lơ lảng.
-Từ HV viết hỏi khi các phụ âm đầu là Ch, Di, Kh và không có phụ âm đầu như ải, ảo…; viết dấu ngã cho khi phụ âm đầu là D, L, M. N, V
-Từ miền Nam, Trung viết dấu hỏi.
Trên đây là qui tắc có thể nhớ được. Phần còn lại, không thể nhớ hết được, có thể giải quyết bằng một trong các cách dưới đây
-Sử dụng tự điển điện tử để tra cứu hay tự động sửa chữa, lẹ hơn là sách tự điển.
-Thay bằng dấu khác. Có thể thay cả hai dấu hỏi ngã bằng một dấu nằm nghiên 45 độ như hình dưới đây, tạm đặt tên là dấu “nghiên”
Phương cách này rất thích hợp để viết tay, nhưng phải viết kiểu nước đôi hay mờ ảo như chữ “Bác sĩ”, để không ai bẻ được. Để có thể dùng trong computer chắc phải nhờ một người nào đó cài thêm dấu này vào trong các chương trình viết tiếng Việt.
Trên đây chỉ là vài ý kiến thô thiển, nếu thấy sai thì xin chỉ giáo, nếu trái tai thì xin bỏ qua cho.
Đoàn Văn Phi Long (Úc Châu)

Thánh Kinh bằng hình: Chúa nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm B

Thánh Kinh bằng hình: Chúa nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm B

Ngày 24 tháng 05 năm 2015
CN Lễ Hiện Xuống:
Phúc Âm Ga 20, 19-23
"Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” 
”Chúa Thánh Thần đã xuống trên các Tông đồ và Hội thánh mới được thành lập”. Biến cố lễ Ngũ Tuần được Sách Công vụ tông đồ diễn tả bằng những lời văn sống động gần giống cách tường thuật việc Thiên Chúa ban Lề Luật cho dân Chúa trên núi Sinai. Với khí thế tưng bừng, náo nhiệt, ào ạt gió bão, Chúa Thánh Thần tràn ngập cộng đoàn Hội Thánh tiên khởi, gồm 11 môn đệ Chúa Giêsu, Mẹ Maria, một số phụ nữ đạo đức và 120 tông đồ (Cv 1, 15). Trong ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ, tông đồ và những người hiện diện đều được tràn đầy Thần khí và đều cất tiếng ca ngợi những kỳ công Chúa đã làm, cao rao Lời Chúa hứa ban ơn cứu độ nay đã nên thành sự.
Ngày nay Thần khí Chúa hiện diện khắp mọi nơi, mọi chỗ trên toàn thể thế giới. Tác động của Thần khí đảm nhận mọi nền văn hóa riêng biệt và đa dạng trong một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Sứ điệp Tin Mừng của Chúa chỉ có một nhưng đối với từng dân tộc thì sứ điệp ấy được rao truyền bằng ngôn ngữ của chính nước họ. Thần khí của Thiên Chúa cũng chỉ có một nhưng ở nơi đâu thần hứng được diễn tả bằng những phong tục, tập quán, văn hóa của địa phương họ để một ngôn ngữ được diễn tả hợp với tư tưởng, suy nghĩ phù hợp với khẩu vị, truyền thống của từng dân tộc.
Thần khí của Thiên Chúa vẫn đang tràn đầy khắp thế giới, nhưng mọi nước, mọi nơi có biết lãnh nhận Thần khí và có biết tái hiện lại ngày lễ Ngũ Tuần trong Hội Thánh địa phương không? Điều này đòi hỏi phải sống hội nhập văn hóa. Bởi vì, mỗi nước, mỗi ngôn ngữ có một cách diễn tả đức tin khác nhau. Mỗi ngôn ngữ đều có nền văn hóa riêng biệt, người Âu Châu có cách diễn tả riêng, người Phi Châu có cách diễn tả của lục địa họ, người Á Châu có cách diễn tả riêng của Á Châu.Thần khí của Thiên Chúa luôn chan hòa và tràn ngập thế giới này, nhưng để đón nhận được Thần khí lại là một chuyện đòi hỏi con người phải biết mở lòng ra.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến biến đổi tâm hồn chúng con. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi   DCCT
Thánh Kinh bằng tiếng Việt
Thánh Kinh bằng tiếng Anh

Chuyện ngày xưa

Năm 1965 ông thôn trưởng ở tôi bán mấy công ruộng đến tiệm Minh Chánh Quy nhơn mua cái radio ,, về cả xóm nghe dân ca Gió mới bài chòi phát trực tiếp trên đài .. ông Hương mục Bảy vốn nhà nho giáo ,,khi nghe xong chương trình ông hỏi..
Chớ chớ mà nó hát ở đâu dẫy sao nghe lắm lói..
Ông thôn trả lời ,,, dạ hát ở quy nhơn đó bác Bảy 
Hừ ,,hát ở Quy nghơn mà ở đây nghe à ... 
Tui ,,tui nói dí chú .. Hữu thinh dô hình là đồ ma quái ..đừng để trong nhà nó hệ ... 
Năm 1967 Quy nhơn phát chương trình truyền hình năm đầu tiên cũng bằng máy bay .. gặp hôm trời mưa bà con ngồi chờ dài cổ .. xóm nhà tui có ông Hà văn Cứ ( bây giờ đang ở tại ngã ba Phú Tài ) thuộc nhà giàu có ,, lúc đó có máy phát điện có chiếc xe lam ,,cũng đến Minh Chánh chơi cái Denon cữa lùa ,, ông bảo người nhà qua cõng ông Bảy qua đây xem truyền hình ,, bữa nay Hữu thinh hữu hình rồi .... Rất tiếc hôm đó ông Bảy đau nặng thời gian sau qua đời vẫn chưa mục sở thị được Khoa học.hiện thực.. Hữu thinh Hữu hình ,,


Từ bài đăng của An Huu Tran chợt kỷ niệm nhớ về những năm xưa mà nhớ nhất câu nói của ông Hương Mục Bảy ,,Hữu Thinh Vô hình là đồ ma quái ..

Chuyện ngày xửa, ngày xưa đúng y như rằng...

Ngày nay thì chúng ta mỗi người đều có cái phép thần thông mang bên cạnh: Thiên nhĩ thông và thiên nhãn thông đó . Ngày xưa ai có dám nghĩ là có vậy đâu.

Sự lạc hậu khiến con người chậm tiến , nên Nguyễn Trường Tộ bị chém đầu,, ngày nay mọi con người nắm được cả thế giới trong tầm tay,,

Bon Bich còn lưu được tấm hình có TV Denon trắng đen.Đúng rồi thời kỳ đó phải dùng C130 bay lòng vòng để phát sóng,như thế cũng là văn minh lắm rồi.

Thứ Năm, 21 tháng 5, 2015

Những từ dùng sai trong tiếng Việt.


Những từ dùng sai trong tiếng Việt.
(trích trong TrieuThanh Magazine)
1. - Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.
*CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư  không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư  thì mới ổn.
*KHẢ NĂNG. “Khả năng”  là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng  (capacité, capable) với khả dĩ  (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
*QUÁ TRÌNH. Quá  là đã qua, trình  là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”. Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
*HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pélé” “huyền thoại Maradona”... Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền  là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại  là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 cầu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chữ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
*HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân  là nhà vua u mê vậy.
2. - Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán Việt
*ĐỘC LẬP Độc là riêng một mình, Lập  là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ.
*PHONG KIẾN.  Phong kiến gồm 2 chữ phong tước  (ban quan tước) và kiến địa  (ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa.
*TIÊU CỰC, TÍCH CỰC  Hiện nay, người ta gán vào hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết sức rõ rệt. Hành động nào tốt thì được gọi là tích cực; trái lại, hành động xấu thì gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghĩa gốc Hán Việt thì sự gán ép như thế là sai. Tich cực, tiêu cực tự nó không có sẵn tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ, trong một đoàn đi làm việc phước thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng trong một bọn côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại là đứa xấu nhất. Trong truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt buộc phải về phục vụ dưới trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái độ tiêu cực nghĩa là không hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực nầy của Từ Thứ, từ cổ chí kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có xấu đâu.
3. - Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm).
*QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật . Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.
*GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng.
*ĐỆ NHẬT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm du lịch, có hàng chữ to tướng dùng để quảng cáo “Nơi đây có đệ nhất thác”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm nghĩa) trước chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì cả hai chữ đều phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm, thế là bậy rồi. Không có tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo tiếng Hán là bộc bố , nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là chưa được Việt hóa thành tiếng Hán Việt nên chưa thể dùng được. Trong trường hợp nầy, nên viết “Nơi đây có thác đẹp nhất”, vừa đúng, vừa dễ hiểu lại vừa hấp dẫn khách du lịch.
4. - Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.
*X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng X quang” Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học, quang  có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ dài sóng từ 0.1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được tế bào thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?
*BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phu, hóa là từ chính. Đây cũng là văn phạm Hán Việt. Để thành lập từ kép thì cả 2 từ đơn đều phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê tông lại là tiếng Pháp (béton) phiên âm ra, do đó nói bê tông hóa là sai. Ngoài ra, nghĩa cũng sai vì từ bê tông hóa được dùng phải được hiểu là con đường đà được biến hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không nên nói bê tông hóa mà nói một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa đúng lại vừa dễ hiểu. Còn một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo chi, trong chương trình truyền thanh, truyền hình như : nghèo hóa, giàu hóa, no hóa, đói hóa, khôn hóa, dại hóa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam!
*NỮ NHÀ BÁO Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I rắc, sau khi lính Mỹ bắn nhầm nhân viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ phóng viên vừa được bọn bắt cóc trả tự do, các đài truyền hình ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lại nhóm từ nữ nhà báo. Thực là quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi và phải nói “nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải dùng 3 từ Hán Việt: “nữ phóng viên” hay “nữ ký giả”. Ban biên tập các đài truyền hình không biết điều nầy sao?
*TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường xuyên hai từ triều cường khi người ta nói đến thủy triều trên song… Hai chữ nầy có thể thay đổi vị trí trước sau và có hai ý nghĩa khác nhau. Cường triều  gồm tính từ đứng trước danh từ thì tương đương với một danh từ và có nghĩa là con nước lớn (haute marée). Triều cường  thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động từ cương và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào cũng dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại sao không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đúng lại vừa phù hợp với trình độ và thói quen của đại chúng.
*HẠT NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện tượng xảy ra bên trong cái lõi hay cái nhân của nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hạch tâm. Hạch  là cái hạt, tâm  là cái lõi hay cái nhân bên trong. Hạch tâm là cái nhân của hạt. Đó là từ ghép theo văn phạm Hán Việt vì cả 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển sang dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi là “nhân của hạt” hay nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt vỏ” được. Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa lại: phản ứng nhân hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch tâm thì hay hơn nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm.
*TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc có nghĩa là ăn cướp, đạo  mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn  là ăn trộm văn của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và đúng là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê... Cũng cần nói thêm về một từ đang được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường phố. Đinh là một từ có gốc Hán Việt  nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn rồi nên ghép với từ tặc thì không ổn. Vả lại, nói đinh tặc là sai nghĩa vì từ đó có nghĩa là bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó đi và nên nói một cách giản dị là “bọn rải đinh” thì hơn.
Còn vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây như:
Lớp trưởng, phải sửa lại trưởng lớp,
Nhóm trưởng, phải sửa la trưởng nhóm
Siêu rẻ, phải sửa lại rất rẻ
Siêu bền, phải sửa lại rất bền
Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn
Vân vân...
5.- Dùng từ vô nghĩa
*Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu”. Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hán Hoa liễu  có nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép “bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu  thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu!!!
*ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng nầy”. Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.
*SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự  có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lung, không thể chấp nhận được.
* HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh bi thảm”!!! Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế đó không?
*ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chứ không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.
*XÂY DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng 2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới dó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.
6. - Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.
*NGƯỠNG. Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên và vượt qua ngưỡng 1% thì đường thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 đô đến 35 độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập viết nên.
*KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó: ”Thằng A hay kiêu ngạo người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được.
*TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng chí chủ tịch”
7. - Dùng từ thiếu chính xác
*CHẤT LƯỢNG. Chất là cái khối chứa bên trong một vật (matière,) lượng là tính chất của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được (masse). Thí dụ: “khối lượng hay chất lượng của một vất là 1 kilo gramme”. Thế mà ngày nay người ta dung từ chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được (qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon má cò có hại cho sức khỏe nữa”.
*CẢM GIÁC.  Đó là sự nhận biết của cơ thể do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm”. Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: ‘Với tình hình nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng.
*THỐNG NHẤT. Thống nhất  là làm biến mất tình trạng chia rẻ bằng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi cần thống nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai.
*GIẢI PHÓNG. Giải phóng  là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chỉ công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là giải tỏa mặt bằng.
*ĐĂNG KÝ. Đăng ký  là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.
8. - Từ vựng lộn xộn.
*LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm Quảng Đông (?), tài xế cũng được rõ ràng minh bạch.
*YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu câu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ.
*NGHIÊN CỨU SINH. Sinh  là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học, giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ!
*ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng (impression) là cái hình tượng do ngũ quan cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn thượng là một danh từ của tâm lý học. Thế mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả động từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ.
*THẦN TƯỢNG.  Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng”, rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”
*TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở thành danh từ. Thí dự: “Cần phải báo cáo cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe”.
*LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vi nói làm giỏi, học giỏi.
*LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay  và có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh đạo đã chỉ thị như thế”. Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng, ai cũng rõ điều đó.
9. - Cóp tiếng Tàu đang dùng.
*LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban  là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn chút nào. Dùng chữ lưu cấp  thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được.
*TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến đi thăm vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được chút ít” Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu. Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí dụ,  tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất cả mọi người. Một thí dụ khác:  tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi vào tiếng Việt.
10. - Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa.
*ĐIỂM YẾU Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm Nôm có nghĩa là cái điểm không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.
*THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở phía bên trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thì thấp có nghĩa là ẩm ướt… Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp điểm” hay “dùng điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”
11. - Đảo tư kép bừa bãi và không cần thiết.
*XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ…”. Đảo từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách bừa bãi được.
Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững / vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây / ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng / hoảng kinh; ái ân / ân ái …..
Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được.
Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay.
Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh sĩ-liệt”!!!
12. - Ghép từ bừa bãi.
*KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công chánh đang thực hiên ở dưới sông. Cách ghép nấy nghe rất chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay.
*GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phái một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời dặn đò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé”. Ý đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không
13. - Dùng từ dao to búa lớn
*CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại sao giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong, tôi ngã ngửa, Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay.
*CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái”. Nghe thực đáng sợ.
*NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi.
*THAM QUAN.  Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.
*NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi nghiên cứu.
14. - Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục.
*KHẨN TRƯƠNG Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Úc từ năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng hới thuộc tỉnh Quảng bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản dị và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng mà thôi.
*BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về Hà nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường.
15. - Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý.
*MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao.
*LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần Việt của dân tộc mình.
16. - Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỷ thuật hiện đại.
*COMPUTER dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà chuyên môn về kỷ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn từ cho chính xác.
*INFORMATION TECHNOLOGIE dịch là tin học, cần xét lại 2 điểm. Thứ nhất, tecgnologie là một kỷ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới là tiếng Hán Việt. *ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa các chuyên viên kỹ thuất và ngôn ngữ.
Tâm Hiền 2015 sưu tầm