Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2014

Thánh Kinh bằng hình: Chúa nhật thứ XX Thường niên năm A

Thánh Kinh bằng hình: Chúa nhật thứ XX Thường niên năm A

Chúa nhật, ngày 17 tháng 08 năm 2014
Phúc Âm Mt 15, 21-28
"Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy"
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay đặt ra một vấn đề rất gần với những suy nghĩ và nếp sống của con người: vấn đề phân biệt đối xử. Ngày nay có phân biệt chủng tộc, có phân biệt phái tính, có phân biệt giai cấp, có phân biệt Bắc-Nam, phân biệt đảng phái... và phân biệt giàu-nghèo. Trong Lời Chúa có đề cập đến phân biệt tôn giáo: Dân ngoại với Dân Chúa. Trong thực tế còn nhiều thứ phân biệt không nói thành lời!
Mọi sự phân biệt đều rõ ràng nhằm tiêu diệt phẩm giá và cả sự sống của một thành phân nhân loại. Và điều ấy chẳng bao giờ có thể phù hợp với Thiên Chúa, và cách riêng với Ðức Giê-su. Khẳng định có thể rút ra từ Lời Chúa hôm nay.
Thánh Phao-lô cho rằng tính phổ quát của ơn Cứu Ðộ không những không mâu thuẫn với ơn đặc tuyển của Israel, mà còn làm cho ơn gọi của Israel thêm phong phú và vinh dự: khi Thiên Chúa xót thương và cứu độ dân ngoại, vì như thế Israel có cơ hội thấy hồng ân Chúa gọi họ, chọn họ thật lớn lao, bởi vì họ khám phá ra rằng "Suốt ngày Ta dang tay kêu gọi một dân không vâng lời và ngỗ nghịch".. Những số sót của Israel trong đó có Phao-lô chứng tỏ Thiên Chúa không bỏ rơi dân Chúa chọn, nhưng khi Israel tin nhận ra và trở về với hồng ân Chúa, thì tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy: sự tốt đẹp như "từ cõi chết bước vào cõi sống".
Trong Tin Mừng, cũng như trong thư của Phao-lô, còn có một chi tiết mà người Kitô hữu không thể không đón nhận: Họ phải là "số sót còn lại của Israel" giữa mọi dân tộc. Họ phải trở thành chứng từ, trở thành người cầu thay nguyện giúp cho dân ngoại khám phá ra và được hưởng lòng thương xót của Chúa. Ðó là sứ vụ phải được chính họ quý trọng và cần mẫn, như Phao-lô và các môn đệ Ðức Giê-su. Thánh Phao-lô khi nói về số sót ấy, đã xác định cuộc sống căn bản của họ là chấp nhận được tháp vào gốc sự sống, Ðức Giê-su Ki-tô, bằng việc tin giữ Lời Người. Và như vậy họ cũng ý thức được việc loan báo Lời là sứ vụ của lòng Tin. Hơn thế, đó còn là vinh dự của kẻ tin.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Thánh Kinh bằng tiếng Việt
Thánh Kinh bằng tiếng Anh

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2014

THÁNH PIÔ X, (St. Pius X) Giáo hoàng, ngày 21/8

THÁNH PIÔ X, (St. Pius X)
Giáo hoàng, ngày 21/8


Thánh Gioan viết:” Người mục tử nhân lành, hy sinh mạng sống cho đoàn chiên” ( Ga 10, 11 ). Thánh Piô X xứng đáng với lời ca ngợi của ca nhập lễ, lễ thánh Giáo Hoàng:” Chúa đã lập với vị thánh này một giao ước bình an, đặt Người làm thủ lãnh và ban cho Người chức tư te, tồn tại đến muôn đời”.

CON NGƯỜI CỦA THÁNH PIÔ X:
Thánh nhân có tên là Giuse Sarto, sinh năm 1835 tại làng Riese, miền Vénétia nước Ý. Thánh Piô X rất thông minh, cần mẫn và sáng trí . Ngài học tiểu chủng viện Pađua và thụ phong linh mục vào năm 1858.Thánh nhân đã làm cha phó giáo xứ Tomholo, rồi chánh xứ Salzanô, và được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo Triều Roma. Vì là một người có tài, có đức, nên Ngài được Đức Thánh Cha phong làm Giám Mục địa phận Mantoue vào năm 1884. Thánh nhân đã chu toàn trách nhiệm chủ chăn, chuyên lo đào tạo hàng giáo sĩ, thương yêu,lưu tâm đến người nghèo và để ý tới phụng vụ. Với những cố gắng phục vụ Giáo Hội, lo lắng cho tha nhân, năm 1893, thánh nhân được phong làm Hồng Y, Giáo Chủ Venise Thiên Chúa đã tuyển lựa Ngài cách đặc biệt để lèo lái Giáo Hội của Chúa, nên sau khi Đức Giáo Hoàng Lêô XIII qua đời, Ngài được bầu lên chức vụ tối cao của Giáo Hội vào ngày 4 tháng 8 năm 1903. Ngài đã cố gắng chối từ nhưng như lời Chúa nói:” Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả anh em được lâu bền”( Ga 15, 16 ). Trên ngai Giáo Hoàng, Ngài vẫn sống đơn sơ, khiêm nhượng, khó nghèo. Thánh nhân bảo vệ đức, củng cố đức tin cho mọi người, lên án, chống lại phái duy tâm, tiếp xúc với các nhóm ly giáo, đặt nền tảng vững chắc cho giới tu sĩ, soạn thảo cuốn giáo luật, khuyến khích lòng sùng kính Bí Tích Thánh Thể, việc siêng năng rước lễ và việc ban cho trẻ em
rước lễ sớm hơn thường lệ.

THÁNH PIÔ  X QUA ĐỜI VÀ GIÁO HỘI TÔN VINH NGÀI:
Với trách nhiệm chủ chăn hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng Piô X đã lo âu, đau khổ vì thế chiến đang bắt đầu. Thánh nhân nhạy cảm trước mọi biến cố của thế giới xẩy đến, Ngài chia sẻ với thế giới, với mọi người nỗi đau, nỗi buồn và sự vui mừng, Ngài ra đi về với Chúa trong an bình vào ngày 20 tháng 8 năm 1914. Năm 1945, Đức Thánh Cha Piô XII đã phong thánh cho Ngài.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Thánh Giáo Hoàng Piô X trí khôn ngoan siêu việt và lòng dũng cảm xứng bậc Tông Đồ để Người bênh vực đức tin công giáo và quy tụ  tất cả về Đức Kitô. Xin rộng ban cho chúng con biết nghe lời thánh nhân giảng dậy và noi gương sáng của Người hầu mai ngày đạt tới phước trường sinh”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Piô X).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

THÁNH BERNAĐÔ, (St. Bernado of Clairvaux) Viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh, ngày 20/8

THÁNH BERNAĐÔ, (St. Bernado of Clairvaux)

Viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh,

ngày 20/8



Thánh Bernađô vì được mẹ nuông chiều, hay rụt rè, mắc cỡ và nhát sợ. Chúa có đường lối của Ngài, đã biến thánh nhân trở thành người dạn dĩ, hiên ngang, loan báo Tin Mừng của Chúa đúng theo lời thánh vịnh viết:” Miệng người công chính niệm lẽ khôn ngoan và lưỡi họ nói lên điều chính trực: Luật Thiên Chúa, họ ghi tạc vào lòng”( Tv 36, 30-31 ).

MỘT CON NGƯỜI. MỘT CUỘC ĐỜI:
Thánh Bernađô sinh năm 1090 tại Fontai ne miền Bourgogne nước Pháp.  Gia đình của thánh nhân gồm 7 anh em và cậu là người được mẹ nuông chiều hơn cả vì thế, cậu có bản tính nhát sợ và hay mắc cỡ. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã chọn lựa Ngài và biến Ngài trở nên con người mạnh mẽ, can đảm loan báo Tin Mừng của Chúa. Thánh Bernađô gia nhập Dòng Citô vào lúc Ngài tròn 22 tuổi. Sau những năm thử thách, cầu nguyện và tu đức trong Dòng khổ tu Citô, nghĩa là sau 3 năm nhà tập, thánh nhân được nhà dòng cử đi làm tu viện trưởng tu viện Clairvaux, một cho nhánh của Dòng Citô. Thánh nhân đã sống đời sống gương mẫu và chuyên cần học tập. Đức Cha Guillaume de Champeaux đã truyền chức linh mục cho Ngài vì nhận thấy Ngài là người hiểu biết, đức độ và có khả năng nên sai Ngài đi giảng thuyết. Thánh nhân đã biện bác chống lại bọn lạc giáo. Nhiều bậc vị vọng đạo đời đã tìm gặp Ngài xin Ngài chỉ dẫn trong mọi công việc. Danh tiếng của Ngài vang lừng khắp nơi, nhưng thánh nhân vẫn thích đời sống khiêm tốn, ẩn dật trong tu viện. Thánh nhân đã viết nhiều sách rất có giá trị nhất là về phương diện tín lý. Thánh Bernađô  đã góp tay, góp trí tuệ để giúp Đức Thánh Cha Innocentê II chống lại bọn ly giáo Pierre de Léon.

THÁNH NHÂN RA ĐI VỀ VỚI CHÚA VÀ GIÁO HỘI TÔN VINH NGÀI:
Thánh Bernađô ra đi về với Chúa năm 1153 tại tu viện Clairvaux thọ 63 tuổi. Ngài đã để lại nhiều tu viện do tay Ngài thiết lập và để lại rất nhiều bút tích quí giá. Với những công đức và nhân đức anh hùng của Ngài, Đức thánh Cha Piô VIII đã tôn phong Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh.

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh viện phụ Bênađô đầy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa để trở nên ngọn đèn cháy sáng trong Giáo Hội. Nhờ lời người cầu giúp nguyện thay, xin cho chúng con cũng được lòng hăng hái như Người để sống thế nào cho xứng danh là con cái ánh sáng( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Bernađô, viện phụ )

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

THÁNH GIOAN EUĐÊ, (St. John Eudes) Linh mục, ngày 19/8

THÁNH GIOAN EUĐÊ, (St. John Eudes)
Linh mục, ngày 19/8


Mỗi thánh đều có một nét đặc biệt. Ơn gọi của mỗi vị đều có những sắc thái khác nhau, không ai giống ai, không ai như ai cả. Tựu trung, tất cả các vị thánh đều có một mẫu số chung là muốn trở nên trọn lành và họa lại càng giống bao nhiêu càng tốt hình ảnh của Đức Giêsu Kitô.

THÁNH GIOAN ÊUĐÊ LÀ AI ?
Thánh Gioan Êuđê sinh tại miền Normandie nước Pháp, thuộc địa phận Sées ngày 14 tháng 11 năm 1601 ở làng Ri. Thoạt đầu, thánh nhân theo học với các cha Dòng Tên tại Caen và sau đó đi vào Đại Học. Được gần gũi các cha Dòng tên, được hun đúc về tình yêu Chúa và phục vụ tha nhân, thánh Gioan Eâuđê muốn đáp trả lại lời mời gọi của Chúa, nhưng gia đình Ngài ngăn cản Ngài trở thành linh mục. Ý Chúa thật nhiêm mầu, Ngài không bao giờ nản chán và quyết tâm theo đuổi lý tưởng trở thành linh mục của Chúa, Ngài gia nhập hội dòng giảng thuyết do Đức Hồng y Bérulle vào năm 1623 và rất hăng say với công việc loan báo Tin Mừng. Thánh nhân nhiệt thành với công việc, chuyên cần học triết học và thần học, Ngài được gọi lãnh sứ vụ linh mục và sau đó được chỉ định làm cha xứ ở Aubervillier, đồng thời kiêm nhiệm chức vụ giảng dậy ở nhiều nơi trong nước Pháp. Đời sống đạo đức, lối sống thánh thiện, gương mẫu đi đôi với lời giảng dậy có sức thu hút, lôi cuốn nhiều linh hồn. Thánh nhân có tinh thần truyền giáo cao độ, khi trong vùng có dịch bệnh hoành hành, lan rộng khắp nơi, thánh nhân đã tình nguyện đi săn sóc bệnh nhân và an táng những người qua đời.

NHỮNG CÔNG VIỆC NỔI BẬT CỦA THÁNH NHÂN:
Thánh nhân có đời nội tâm sâu sắc, chính Ngài đã chấn chỉnh lại đời sống đạo đức và uy thế của các giáo sĩ bị sa sút, và thánh Gioan Eâuđê đã thiết lập nhiều chủng viện để thực hiện dự tính tốt lành của Ngài trong việc chấn hưng đạo đức và đào tạo giáo sĩ. Năm 1662, thánh nhân đã lập Hội sùng kính trái tim Chúa Giêsu, sau này được  đổi tên là Dòng Đấng Chăn Chiên Lành để giáo dục các thiếu nữ trụy lạc, hư đốn, sa đọa.

CHÚA THƯỞNG CÔNG VÀ GIÁO HỘI TÔN VINH THÁNH NHÂN:
Với cố gắng tận lực, với lòng hy sinh, nhiệt thành cao độ, thánh Gioan Eâuđê đã được Chúa gọi về vào ngày 19 tháng 8 năm 1680. Đức thánh Cha Piô X đã cất nhắc Ngài lên bậc chân phước. Đức Giáo Hoàng Piô XII, vào dịp năm thánh 1925, đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh, và truyền cho Giáo Hội kính Ngài trên toàn thế giới vào năm 1928.

Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Gioan linh mục làm người rao giảng sự phong phú khôn lường của Đức Kitô. Xin cho chúng con cũng biết theo gương sáng của thánh nhân và nghe lời Người dạy dỗ để ngày càng thêm hiểu biết Chúa và trung kiên sống theo Tin Mừng( Lời nguyện nhập lễ,lễ thánh Gioan Eâuđê).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

THÁNH GIOANNA PHANXICA ÐỆ CHANTAL, nữ tu

THÁNH GIOANNA PHANXICA ÐỆ CHANTAL, nữ tu
Ngày 12/08

Mt 11,28-38

Ðọc lại gương các thánh, mỗi người không khỏi suy nghĩ về cuộc đời của các Ngài và rồi nhìn lại đời mình để thấy những gì còn thiếu nơi mình, những gì mình cần cố gắng, phấn đấu để cũng nên than�h như các thánh. Thánh Augustinô đã nói một câu rất chí lý:" tại sao ông kia bà nọ nên thánh, mà tôi lại không nên thánh ? ".

THÁNH GIOANNA PHANXICA ÐỆ CHANTAL
Tại nước Pháp ở miền Dijon vào ngày 23/01/1572, Gioanna Phanxica frémiot de Chantal đã chào đời. Tuổi thơ của thánh nhân được đánh dấu bằng một biến cố hết sức đau thương:mẹ Gioanna Phanxica qua đời lúc thánh nhân chưa tròn hai tuổi. Nỗi đau thương ấy không gì có thể khỏa lấp được đối với Người vì rằng Người lại phải sống cảnh gà trống nuôi con. Nhưng với tình thương, lòng cương nghị, quả cảm của người Cha, Gioanna Phanxica đã ảnh hưởng cuộc đời của Cha mình rất nhiều. Chính người Cha của thánh nữ đã hun đúc, uốn nắn Người nên một nữ thánh kiên trì, quả cảm, dũng mãnh, giầu nghị lực. Vào tuổi lớn lên, như mọi thiếu nữ khác, thánh nhân đã kết hôn với bá tước Chantal. Cuộc hôn nhân của Người với bá tước Chantal mang lại hạnh phúc lớn lao. Hai ông bà đã sinh hạ được bốn người con. Ðời gia sống đình của hai ông bà tưởng sẽ kéo dài hạnh phúc vô hạn. Nhưng hạnh phúc nào chẳng có đau khổ. Thánh giá� của Chúa đã ập xuống trên Gioanna Phanxica và bốn người con khi bá tước Chantal bị tử nạn trong một chuyến đi săn bắn vào năm 1600. Với ý chí sẵn có, lòng quả cảm trào dâng, thánh nhân đau khổ tột bực,nhưng Người luôn cảm nghiệm tình thương của Chúa và ý thức thánh giá Chúa gửi tới cho mình và cho con cái mình. Thánh nữ Gioanna quyé�t tâm nuôi lý tưởng ở vậy nuôi con và luôn hướng tâm hồn thuộc trọn về Chúa. Con đường của Chúa luôn huyền nhiệm. Thánh nữ đã được Ðức Giám Mục địa phận Genève hướng dẫn, nhờ vậy, Người tiến bộ rất mau trên đường nhân đức, thuộc trọn về Chúa. Với sự đồng ý của con cái, gia đình, thánh nữ đã từ giã mọi người thân yêu để gia nhập dòng Thăm Viếng vào năm 1610. Thánh nữ đã góp công rất nhiều trong việc cải tổ, củng cố tu viện, tổ chức các nhà tập, và lập các chi nhánh nhà mới tại nhiều nơi.

CHÚA GỌI THÁNH NỮ

Với một cuộc sống tốt đẹp, thánh nữ đã hiến mọi tài năng, công sức để củng cố, xây dựng, tổ chức lại nhà dòng. Thiên Chúa đã yêu thương Người, kêu gọi Người về với Chúa vào ngày 13/12/1641 tại Moulins. Người được an táng tại Annecy trong nguyện đường của tu viện. Vì� những công đức Người cống hiến cho nhà dòng, những phép lạ và những nhân đức anh hùng Chúa ban cho Người khi Người còn sống cũng như khi Người qua đời, Chúa đã thưởng công cho Người. Ðức Giáo hoàng Clêmentê XIII đã phong thánh cho Ngài vào năm 1767.

Lạy thánh nữ Gioanna Phanxica đệ Chantal, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con trước tòa Chúa để chúng con biết trung thành với ơn Chúa gọi để mọi người nhìn thấy ánh sáng của Chúa trong những việc chúng con làm.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

THÁNH TÊ-PHA-NÔ HUNG-GA-RI, ngày 16/8

THÁNH TÊ-PHA-NÔ HUNG-GA-RI, ngày 16/8
Mt 18, 15-20

MỘT VỊ THÁNH ĐẦY KIÊN VỮNG


Đọc hạnh các thánh, con người sẽ không ngớt đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Mỗi vị thánh là một viên gạch, mỗi vị thánh mang một nét đặc thù riêng biệt, tất cả họ đều có một mẫu số chung là :” …mặc lấy Chúa Giêsu “ ( Rm 13, 14 ) và sống như  Ngài. Việc lạ lùng nơi các thánh là các Ngài thuộc mọi lớp, mọi chủng tộc, mọi mầu da, mọi ngôn ngữ ; Chúa đã tuyển chọn các Ngài để chính các Ngài làm chứng cho Chúa. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một bộ mặt nổi, Giáo Hội tôn kính một số vị thánh có thể nói là nổi bật nhất, nhưng còn biết bao vị thánh, Hội Thánh không nhận ra hoặc chưa tôn vinh trên bàn thờ vì số này đông vô kể, họ vẫn đang trên Nước Trời chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi, cùng với Đức Mẹ và triều thần thánh trên Trời.
Thánh Tê-Pha-nô Hung-ga-ri là một trường hợp đặc biệt trong muôn vàn trường hợp mà Hội Thánh nhận ra công đức và những công việc của Ngài làm ở dưới thế gian này dù rằng Ngài ở trên ngai tòa cao nhất của đất nước Hung-ga-ri, thánh nhân vẫn thực hiện được những điều làm vinh danh Chúa. Thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri sinh vào khảng năm 975 và được lãnh nhận phép rửa tội làm con Chúa và con của Giáo Hội năm 985. Năm 997, thánh nhân lên kế vị Vua Cha. Ngài đã trị vì trên ngôi Vua, lãnh đạo đất nước Hung-ga-ri được 42 năm. Lên ngôi được 3 năm, thánh nhân được Đức Giáo Hoàng Sylvestre II phong vương với tước hiệu :” Vị Vua loan báo Tin Mừng của nước Hung-ga-ri “vào ngay dịp lễ Chúa giáng sinh năm 1000. Thánh nhân có thân hình nhỏ bé chứ không cao ráo, quắc thước như những vị Vua khác, nhưng tấm lòng của Ngài thật bao la, quảng đại. Ngài có con tim rộng mở, nhạy bén, tiên đoán chính xác thời cuộc, Ngài có rất nhiều khả năng lãnh đạo, điều khiển đất nước và tấm lòng nhiệt thành, quả cảm đối với mọi công việc của đất nước Hung-ga-ri. Thánh nhân đã xây dựng đất nước Hung-ga-ri với tất cả tấm lòng, với tất cả đức tin vững chắc, sâu xa của mình vì Ngài thấm nhuần lời thánh Phaolô dậy: “ Anh em là thân thể của Đức Kitô, anh em là các chi thể của Ngài “( 1 Co 12, 27 ). Ngài coi  các thần dân của Ngài như là những người anh em trong Chúa đã” được thanh tẩy, nên cùng chết và cùng sống lại với Đức Kitô “. Được phong Vương với tước hiệu: “ Vua truyền giáo của đất nước Hung-ga-ri “, thánh nhân đã nỗ lực sống tình yêu của Chúa Kitô đối với thần dân, đối với đất nước của Ngài. Suốt 42 năm trên ngai Vua, thánh nhân đã xây dựng đất nước Hung-ga-ri với đôi bàn tay vững chắc, với con tim yêu thương, với tấm lòng quảng đại bao la của Ngài. Trên ngai Vua, thánh nhân đã tổ chức Hội Thánh thấm nhuần đức tin sâu xa trên quê hương, đất nước của Ngài : Ngài đã thiết lập các giáo phận và xây dựng nhiều nhà thờ nguy nga, hoành tráng, lộng lẫy và đồ sộ trên đất nước Hung-ga-ri. Thánh nhân đã từ giã cõi đời, từ bỏ ngôi Vua trần thế vào chính ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời và dân chúng Hung-ga-ri thường gọi ngày đó là ngày lên trời của đất nước Hung-ga-ri.
Thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri đã sống đúng lời thánh Phaolô dậy :” các bạn hãy vui mừng, tôi nói lại một lần nữa các bạn hãy vui mừng”( Philip 4, 4 ). Thánh nhân đã hoàn toàn tín thác cho Chúa, đã đáp lại lời mời gọi nên thánh của Chúa. Làm Vua có nghĩa là được tận hưởng mọi vinh dự và vinh quang do chức vị Vua mang lại, nhưng thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri  đã sống như một Vua hiền từ, khiêm nhượng và phục vụ như lời Vua Giêsu đã nói : “…đến để phục vụ chứ không phải để được hầu hạ “.
Lạy thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri  xin giúp chúng con luôn có tấm lòng quảng đại và khiêm tốn để chúng con làm chứng nhân truyền giáo cho Chúa với tất cả tình yêu của Chúa. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT 

Lịch sử bằng hình ảnh Trung tâm Thánh mẫu La Vang – Việt Nam (1798 – 2013)

Lịch sử bằng hình ảnh Trung tâm Thánh mẫu La Vang – Việt Nam (1798 – 2013)

1. NHÀ THỜ NGÓI CỔ LA VANG (1901 – 1923)
Tương truyền, Đức Mẹ hiện ra tại La Vang năm 1798. Vào thời gian đó, vua Cảnh Thịnh (Tây Sơn – con thứ Vua Nguyễn Huệ – Quang Trung) ra chiếu chỉ cấm đạo ngày 17 tháng 8 năm 1798, một số các tín hữu ở gần đồi Dinh Cát (nay là thị xã Quảng Trị) phải tìm nơi trốn ẩn tại núi rừng La Vang, và thường tụ tập nhau dưới gốc cây đa cổ thụ, cùng nhau cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ nhau.
Một hôm đang khi cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ, bỗng họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặc áo choàng rộng, tay bồng Chúa Hài Đồng Giêsu, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Mẹ bày tỏ lòng nhân từ, âu yếm, và an ủi giáo dân. Mẹ dạy hái một loại lá cây có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ lành các chứng bệnh. Mẹ lại ban lời hứa: “Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn theo ý nguyện”.
Sự kiện xảy ra trên thảm cỏ gần gốc cây đa cổ thụ nơi giáo dân đang cầu nguyện. Sau đó, Mẹ còn hiện ra nhiều lần như vậy để nâng đỡ và an ủi con cái Mẹ trong cơn hoạn nạn.
Từ đó đến nay sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại núi rừng La Vang, qua các thế hệ được loan truyền khắp nơi, và nhiều người chân thành tin tưởng, đến cầu khấn Đức Mẹ. Đức Mẹ La Vang thường được biểu tượng bằng một phụ nữ mặc áo dài Việt Nam bế con cũng mặc trang phục truyền thống Việt Nam.
***
Lịch sử nhà thờ La Vang vốn được xây trên nền của một miếu thờ Bà (có thể là Phật Bà Quan Âm hoặc bà chúa Liễu Hạnh) cho người đi rừng, nguyên là một mái nhà tranh dưới gốc cây đa và rào sơ bốn mặt, sau biến cố Mẹ Maria hiện ra năm 1789 được nhường cho giáo dân để xây một nơi tôn kính Mẹ Maria.
Những nhà thờ trước năm 1900 đều chưa tìm được hình ảnh. Khoảng từ năm 1886, Đức Cha Marie Antoine Caspar (Lộc) cho xây lại một ngôi nhà thờ bằng ngói và cho mãi đến năm 1901 nhân dịp đại hội La Vang đầu tiên được tổ chức vào ngày 08 tháng 08 thì mới có Lễ mừng khánh thành nhà thờ.
Ngôi nhà thờ này tồn tại từ năm 1901-1923, Ngôi đền thánh bên trong theo kiểu cách Annam có cột kèo xuyên trên có sức chứa khoảng 400 người. Mặt tiền có hơi theo kiểu Tây với hai tháp vuông. Thiết kế này giống với một số nhà thờ hiện tại ở Miền Bắc (Bùi Chu, Bắc Ninh…) là nhìn mặt tiền thì nhà thờ khá rộng (nhờ có thêm 2 tháp vuông) nhưng trong lòng nhà thờ thì hẹp hơn nhiều. Bên trong, trên bàn thờ có tượng ảnh Đức Chúa Bà mua bên Tây, một bên có Đức Chúa Giêsu đứng là Notre Dame des Victoires. Dưới bàn thờ có tượng ảnh Đức Bà Môi Khôi, có ông thánh Đôminicô và bà thánh Catarinà chầu.
Nhà thở cổ La Vang. 80
Nhà thờ ngói cổ La Vang (1901 -1923)
Trong ảnh, Ngôi nhà thờ đã xuống cấp nhiều, tháp bên phía trái đã có dấu hiệu bị nứt và nghiêng lún và sau đó tự động đổ xuống vào tháng 5.1925 nhưng không làm ai bị thương. Hình ảnh của ngôi nhà thờ này hiện đang được lưu trữ tại Hội Thừa Sai Paris.
2. LINH ĐÀI ĐỨC MẸ
Linh đài theo kiểu Việt Nam được xây vào khoảng năm 1950 và nằm trước linh đài hiện nay khoảng 15 thước. Linh đài này tồn tại trong khoảng từ năm 1950 – 1960. Có thể thấy bức tượng Đức Mẹ La Vang bên trong linh đài.
Linh đài Đức Mẹ La Vang cũ. 81
Linh Đài Mẹ La Vang được xây khoảng năm 1950
3. TƯỢNG ĐỨC MẸ LA VANG
Trong dịp Đại Hội La Vang lần đầu tiên – khánh thành nhà thờ ngói vào ngày 08.08.1900, Đức cha Caspar Lộc đã cung thỉnh bức thánh tượng Đức Mẹ La Vang theo mẫu tượng Đức Bà Chiến Thắng đặt trong ngôi nhà thờ ngói.
“Đức Mẹ mặc áo choàng màu thiên thanh, phủ trên áo trắng ngà, đầu đội triều thiên vàng, chân đứng trên đám mây. Đức Mẹ nhìn đàn con, nét mặt dịu hiền, dáng điện uy nghi. Hai tay Mẹ nâng đỡ Chúa Hài Đồng đứng bên tay mặt như muốn đưa ra giới thiệu cùng chúng ta, trao ban cho chúng ta. Chúa Giêsu Hài Đồng thật duyên dáng trong bộ áo màu hồng, đầu đội triền thiên, chân đứng trên quả địa cầu lấp lánh mấy vì sao. Chúa Hài Đồng một tay níu áo Mẹ, nương tựa vào Mẹ như để làm gương cho ta, một tay giơ ra như để mời gọi ta chay đến cùng Mẹ để tỏ lòng hiếu thảo mến yêu và lãnh nhận muôn ơn lành nhờ lời Mẹ chuyền cầu.
Thánh tượng Mẹ La Vang. 83
Bức thánh tượng quý giá này đã bị hủy hoại trong cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972,
nay không còn nữa.
Mẹ La Vang. 84
Bức tượng Đức Mẹ La Vang (phục hồi) lại được để trên bệ thờ bên hông tháp cổ. Bức tượng Mẹ theo hình dáng này hiện cũng được khá nhiều người đặt trên bàn thờ tại nhà hoặc các Tượng đài Mẹ La Vang ở các nhà thờ, nhà nguyện….
4. NHÀ THỜ LA VANG GIAI ĐOẠN 1923 – 1961
Trong dịp Đại Hội La Vang 8 (1923), Đức cha Allys Lý nhận thấy số giáo dân hành hương ngày một đông, ngôi nhà thờ ngói thì quá chật hẹp, lại đã xuống cấp, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào nên đã quyết định xây dựng ngôi đền thánh rộng lớn tại La Vang.
Ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức 11.02.1924, cha sở Cổ Vưu Morineau Trung phát hiệu lệnh khởi công xây dựng đền thánh La Vang theo đồ án của kiến trúc sư Carpentier, với mức kinh phí dự trù tối thiểu phải hai mươi ngàn đồng bạc.
Nhà thờ La Vang giai đoạn 1923 -1961

Ròng rã bốn năm trời với biết bao công sức tiền của đổ ra, công trình Đền Thánh La Vang vĩ đại đã hoàn thành, một Ngôi thánh đường với hai tầng mái và hai cánh thánh giá cổ điển, cùng với cây tháp vuông hai tầng cao ngất nổi bật lên giữa cảnh đồi cát chung quanh và núi rừng xa xa.
Vào lúc 08 giờ sáng ngày 20.08.1928, nhân dịp Đại Hội La Vang 9, Đức cha Allys Lý đã long trọng cử hành nghi thức làm phép nhà thờ mới.
Nhà thờ La Vang vào thời kỳ mới được xây dựng xong:
Hình ảnh Vương cung thánh đường La Vang chụp năm 1931, giáo dân với trang phục đặc trưng và nón lá. Các công trình kiên cố khác xung quanh Thánh đường vẫn chưa có nhiều. Trong hình, Nhà thờ cũng đã có dấu hiệu xuống cấp do thời tiết khắc nghiệt của miền trung. Gần khu vực Linh đài hiện tại vẫn là ngôi nhà tranh.
5. GIAI ĐOẠN KIẾN THIẾT TRUNG TÂM THÁNH MẪU TOÀN QUỐC LA VANG (1961 – 1963)
Ngày 13.04.1961, Hội Đồng Giám Mục Miền Nam Việt Nam đã quyết định La Vang là Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc và chọn đền thánh La Vang làm đền thờ dâng trái tim vẹn sạch Đức Mẹ. Đồng thời chấp thuận một chương trình kiến thiết Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang.
Giai đoạn thiết kế trung tâm Thánh Mẫu toàn quốc La Vang (1961 -1963)
Sáng 22.08.1961, ngày xức dầu đền thánh, cũng là ngày cuối cùng trong 6 ngày Đại Hội La Vang 15, trước hàng giáo sĩ và 300.000 giáo dân, Đức ông De Nitris, thư ký Tòa Khâm Mạng, đại diện Tòa thánh tuyên đọc nguyên văn bằng La ngữ sắc chỉ MAGNO NOS SOLATIO của Đức Thánh cha Gioan XXIII nâng Đền Thờ La Vang lên bậc VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG.
Những hình ảnh ngày đại lễ Đại Hội La Vang lần 15 ngày 22.08.1961:
Trong đền thánh La Vang đặt bốn bàn thờ cẩm thạch lấy từ núi Ngũ Hành Sơn. Một bàn thờ chính dâng kính Đức Mẹ và ba bàn thờ phụ dâng kính các thánh tử đạo ba miền Bắc, Trung, Nam. Trên bàn thờ có hình Đức Mẹ La Vang và phù điêu thánh tử đạo Việt Nam. Lúc đó (1961) khi làm lễ, vị Chủ tế vẫn hướng về phía bàn thờ (trừ lúc giảng) chứ chưa quay mặt về phía giáo dân như bây giờ.
6. LINH ĐÀI BA CÂY ĐA NHÂN TẠO (1961 – NAY)
Dựa theo lời truyền tụng “Đức Mẹ hiện ra trên đám cỏ, dưới gốc cây đa”, ban kiến thiết Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang, đứng đầu là Đức TGM Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục đã chấp thuận đồ án linh đài ba cây đa nhân tạo của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Đó là công trình mới lạ, tân kỳ, tái tạo quang cảnh nơi Đức Mẹ hiện ra với ba cây đa bằng bê tông cất thép cao từ 16,50 đến 21,00 mét, vươn mình trên một đồi đá hình đa giác, với những bậc thềm to nhỏ, rộng hẹp, cao thấp khác nhau. Chính giữa là bàn thờ bằng đá cẩm thạch Ngũ Hánh Sơn. Thánh tượng Đức Mẹ La Vang, mẫu tượng Đức Bà Xuống ơn ngự trên cao, chính điện, trên một khối đá cẩm thạch vuông vắn khác.
Toàn cảnh linh đài Đức Mẹ và Gốc đa chụp năm 1967.
Đây là bức thánh tượng thứ ba được tôn kính tại La Vang, mẫu tượng mới với chủ đề hoàn toàn khác với hai mẫu tượng cũ Đức Bà Chiến Thắng. Linh đài ba cây đa nhân tạo được khởi công ngày 20.06.1963, vừa xong phần bê tông cốt thép, chưa có phần trang trí mỹ thuật bên ngoài thì bị đình đốn do biến cố ngày 01.11.1963 xảy ra. Hơn 40 năm qua, linh đài vẫn tồn tại nguyên trạng ban đầu.
7. NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TRUNG TÂM LA VANG TRƯỚC NĂM 1972
Công trường Mân côi Là khuôn viên trước đền thờ, đã hoàn thành với diện tích 30 x 480 mét, rải đá, tráng nhựa. Hai bên là 15 pho tượng bằng đá cẩm thạch được chạm khắc công phu theo nghệ thuật hiện thực – loại hình nghệ thuật tượng thánh thường thấy – diễn tả Mười Lăm Mầu Nhiệm Mân Côi.
Trong hình trên, Hồ Tịnh Tâm dự tính nằm ở hai bên hình, là khoảng ruộng trước đền thờ rộng 6 ha, đã đào xong với 30.000 ngày công do giáo dân Huế tự nguyện. Theo thiết kế, hồ được tạo hình theo kiểu hồ Tịnh Tâm thành nội Huế, giữa mỗi hồ có một cù lao nhỏ, bên hồ này xây đài kỷ niệm các đấng Chân Phước tử đạo Việt Nam, bên hồ kia xây đài kỷ niệm các đấng bổn mạng xứ truyền giáo. Nội dung phần này chưa thực hiện.
Phía sau Thánh đường có những công trình như Nhà Tĩnh Tâm, khởi Công ngày 24.04.1962. Hoàn thành và đưa vào sử dụng tháng 10.1963. Đó là ngôi nhà lầu bê tông tường gạch một tầng, hình chữ U, ngang 10 mét, rộng 36 mét, cộng với hai cánh, mỗi cánh 12 mét. Được thiết kế gồm nhiều phòng ngủ, hội trường, phòng đọc sách, phòng giải trí, nhà xe, nhà bếp, và nhà ăn 500 khẩu phần một lúc. Chúng ta có thể nhìn thấy công trình này trong hình dưới đây:
Trong hình trên, Ba Vị Giám mục đứng ở đây lúc đó chắc cũng không nghĩ là ngôi Thánh đường trước mặt sẽ bị bom đạn phá tan tành và trong tương lai sẽ có một ngôi thanh đường nguy nga khác được xây nên trên ngay chỗ các Ngài đang đứng. Ngôi nhà hành hương bề thế 2 tầng bên cạnh nhà thờ cũng bị tàn phá không còn dấu tích gì. Ba cây đa và tượng đài Đức mẹ nằm khuất trong lùm cây bên phía phải hình. Các công trình khác như Nhà Hành Hương, Công Trường Thánh Tâm (với tượng đài Kitô Vua đứng trên quả cầu hình bán nguyệt. Một bàn thờ bằng đá cẩm thạch lộ thiên dưới chân tượng. Một hồ nước trong xanh phía trước và một hoa viên tươi tốt bao quanh), Hồ GIÊNÊZARÉT (với hai cầu vồng bắc qua hồ, mỗi cầu rộng 6 mét dài 30 mét, nối liền lộ trình Đền Thánh – Đồi Calvariô – Đền Thánh. Đây là lộ trình chính dành cho các cuộc kiệu lớn) và hệ thống đường sá, điện nước, mương cống, nhà vệ sinh…. Riêng chỉ với những công trình kiến thiết trên đây thôi cũng đã khiến La Vang “phảng phất như một lâu đài thiên quốc…, một kinh thành ánh sáng…, một mảnh thiên đàng rớt xuống miền rừng núi hoang vu.
Hình ảnh các đoàn lễ sinh và giáo dân hướng về phía lễ đài. 40 năm sau, sau nhiều thăng trầm, cũng tại chính vị trí này đã diễn ra nhiều buổi Lễ trọng đại của Giáo hội Việt Nam trong đó có buổi lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng một Vương cung thánh đường mới. Ngôi thánh đường trong hình giờ chỉ còn di tích tháp chuông.
8. LA VANG – NHỮNG NĂM THÁNG YÊN BÌNH (~1970)
Mặc dù chiến tranh đã lan rộng ra toàn miền trung từ những năm 1967 nhưng miền La Vang vẫn tương đối yên bình và hầu như chưa bị ảnh hưởng gì!
Đường vào La Vang 1967
Những hình ảnh Trung tâm La Vang chụp vào thập niên 60 khi chiến tranh chưa lan tới, một khung cảnh yên bình và thanh thản:
9. CHIẾN SỰ LAN TỚI LA VANG
Sự hiện diện của xe quân sự và binh lính báo hiệu chiến sự đã lan tới La Vang (1970)
Đỉnh điểm của cuộc chiến là vào ngày giữa năm 1972, chiến sự ác liệc giữa Cộng quân và Quân đội VNCH đã tàn phá thành bình địa toàn bộ Thánh địa La Vang. Ngày 7/7/1972, mặc dù tái chiếm lại được Thành Quảng Trị và La Vang, nhưng tất cả chỉ còn là đống đổ nát. Ngôi thánh đường xinh đẹp trước đây đã bị tàn phá nặng nề.
Vị Tổng thống VNCH lúc đó là Ông Nguyễn Văn Thiệu đã đến quỳ gối cầu nguyện trước tại gian cung thánh lộng lẫy một thời của Thánh đường với bàn thờ cẩm thạch xinh đẹp thủa nào, giờ chỉ còn là đống đổ nát.
Mặc dù đã Quảng Trị đã được tái chiếm cuối tháng 12 năm 1972, những người lính VNCH hiện diện tại La Vang, linh đài vẫn còn nhưng tượng Đức Mẹ đã bị hư hại với phần đầu tượng đã bị bể.
10. LA VANG – NHỮNG NĂM THÁNG TRẦM LẶNG VÀ HỒI SINH 1975 – 2010
La Vang sau những năm 1972, chiến sự tiếp tục lan rộng cộng với khung cảnh đổ nát khiến khu vực linh địa trở nên trống vắng và hoan tàn. Đặc biệt, sau năm 1975 thì các buổi lễ cũng không được phép tổ chức hoặc gặp rất nhiều khó khăn. Những người muốn đến bên Mẹ La Vang bị xét hỏi, đuổi về nhà, đất đai Linh địa bị thu hẹp nhiều… Giáo hội chỉ còn giữ được Linh đài, Di tích Thánh Đường và phần phụ cận nhỏ xung quanh.
Tại Linh địa cũng không còn Linh mục phụ trách, Linh Mục giáo xứ Diên Sanh gần đó là người duy nhất quản nhiệm La Vang nhưng cũng gặp nhiều khó khăn.
10.1 DI TÍCH VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG
Thực ra, sau năm 1975, ngôi Thánh đường La Vang chưa bị sập hẳn hoàn toàn, phần thiệt hại nặng nề nhất là khu vực giữa nhà thờ và làm kết cấu nhà thờ yếu đi rất nhiều. Năm 1985, cơn siêu bão đổ bộ vào miền Trung đã “giúp” di tích thiệt hại thêm. Tuy vậy, cho tới năm 1997, phần gian cung thánh và phần phía sau (Tháp chuông) vẫn còn tồn tại:
Toàn cảnh ngôi Thánh Đường sau năm 1975. Ngôi tháp cổ có hình dạnh như thế này cho đến năm 2000 mới mới được “phục chế lại” cho vuông vức hơn. Phía lòng nhà thờ giờ thành nhà nguyện “tiền chế”. Những phần tường đổ nát còn lại đã bị dỡ bỏ đi vì rất khó phục hồi nguyên trạng.
10.2 DI TÍCH THÁP CỔ
Những hình ảnh cận cảnh ngôi tháp cổ sau khi được trùng tu và vá lại các phần bị trúng đạn pháo:
10.3 GIẾNG NƯỚC ĐỨC MẸ:
Năm 1903, khi lên chăm sóc vườn Mẹ, cha phó Cổ Vưu Giuse Nguyễn Xuân Cảnh đã cho đào một giếng đất ngay trước nhà thờ ngói. Giáo dân quen gọi là GIẾNG ĐỨC MẸ.
Nước giếng Đức Mẹ không trong lắm nhưng có vị ngọt và mát, không bị ô nhiễm bởi môi trường bên ngoài nên có thể uống ngay, không cần nấu chín.
Vẫn biết nước giếng Đức Mẹ là nước uống bình thường không mang dược tính gì cả, nhưng từ truyền khẩu ngày xưa đến thực tế ngày nay nhiều bệnh nhân uống nước giếng Đức Mẹ mà được lành các bệnh tật là do bởi lòng thành kính cậy tin quyền phép Đức Mẹ được Mẹ ban ơn lành theo ý nguyện mà thôi.
Ngày nay, hơn một thế kỷ trôi qua, giếng Đức Mẹ vẫn được bảo quản sạch đẹp, vệ sinh làm tăng vẻ mỹ quan vườn Mẹ, nhưng trên hết giếng Mẹ là một bảo chứng tình yêu tuyệt vời đối với con cái Mẹ. Từ mạch tự nhiên này, biết bao ơn lành hồn xác Đức Mẹ đã đổ xuống cho con cái Người.
Hiện nay, nước giếng được bơm trực tiếp lên bồn và mọi người lấy nước qua hệ thống vòi phía sau Linh Đài (theo hướng mũi tên chỉ trên miệng giếng như trong hình):
10.4 LINH ĐÀI ĐỨC MẸ
Như đã nói trên, kể từ sau năm 1963 đến tận năm 2010 thì Linh đài Đức Mẹ (Cây đa bê tông) vẫn để nguyên phần thô rêu phong cùng đạn pháo và nắng mưa. Trận chiến năm 1971 tuy phá hủy hầu hết các công trình trong khu La Vang bao gồm cả tượng Đức Mẹ Xuống Ơn trong Linh Đài nhưng ba cây đa vẫn còn hầu như nguyên vẹn.
Linh đài Đức Mẹ vẫn giữ nguyên hình hài cũ cho đến tận năm 2010
Sau đó, năm 1980, HĐGM Việt Nam mới quyết định Tượng Đức Mẹ mang hình dáng người phụ nữ Việt Nam và Bức Tượng này được đặt lại vị trí cũ cùng năm đó:
10.5 TRÙNG TU LINH ĐÀI ĐỨC MẸ – BA CÂY ĐA
Như đã nói trên, Linh đài Đức Mẹ với hình dáng cách điệu ba cây đa bê tông do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế và xây dựng từ những năm 1960 nhưng chưa bao giờ được hoàn thành và khối bê tông thô vẫn để như vậy cho đến hơn 40 năm sau thì mới được tô vẽ cho đúng vẻ kiến trúc của nó. Quá trình này được bắt đầu làm lại trong năm 2010 thì hoàn thành. Tuy nhiên, khung cảnh hoang sơ của Linh đài mẹ đã không còn nữa. Thay vào đó là khung cảnh lộng lẫy hơn.
Linh đài Đức Mẹ La Vang hiện nay với Bức Tượng Mẹ mặc áo dài khăn đống theo truyền thống phụ nữ Việt Nam tạc trên đá quý từ năm 2011
11. LA VANG NGÀY NAY
Thật ra, từ lúc nhà nước “mở cửa”, các công trình tại La Vang cũng đã được xây thêm, trùng tu tôn tạo nhưng hầu như là mang tính tự phát và chưa gắn kết được với nhau thành một khối tổng thể.
Nhà hành hương đối diện với Linh đài được xây dựng bề thế phục vụ chỗ ở cho khoảng 300 khách hành hương một lúc. Theo các thiết kế mới thì nhà hành hương này cũng sẽ bị đập bỏ để phù hợp với quy hoạch chung.
Lễ đài nhìn từ phía tháp cổ dịp đại lễ 1999
Toàn cảnh công trường mân côi. Theo thiết kế mới, Công trường mân côi sẽ giữ nguyên và hầu như không thay đổi gì.
12. THIẾT KẾ LA VANG

Hình chụp Linh đài năm 1999 cho thấy lúc đó La vang vẫn còn hoang sơ và hoang tàn lắm!
Linh đài lúc chưa trùng tu!
Năm 2010, HĐGM Việt Nam ủy quyền cho Tòa Tổng Giám Mục Huế tổ chức cuộc thi Thiết kế lại toàn bộ Linh địa La Vang với tiêu chí về kiến trúc như sau:
– Giữ gìn và Bảo tồng phần Tháp cổ, Giếng nước, Quảng trường Mân côi và Linh đài.
– Mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam và phù hợp với kiến trúc tôn giáo.
– Phân khu chức năng, không gian kiến trúc và quy hoạch, sử dụng đất và hạ tầng kỹ thuật. Thể hiện hài hòa giữa Trung tâm hành hương và các vùng lân cận.
– Kiến trúc quy hoạch quan tâm đến môi trường, khí hậu nhiệt đới gió mùa. Định hướng phát triển không gian mở rộng Trung tâm Hành hương về phía Đông Tây.
– Tính khả thi, kỹ thuật của đồ án: Giải pháp kỹ thuật – Phân kỳ thực hiện – Đề xuất xây dựng công trình – Định hướng nguồn năng lượng thay thế …
Và quan trọng hơn, đồ án phải “thổi được hồn Đạo và hồn Việt vào các công trình kiến trúc của Trung Tâm này”.
Có nhiều Công ty tham gia thiết kế, rất nhiều ý tưởng thiết kế được đưa ra, để chọn được một thiết kế để xây dựng không phải là một điều dễ dàng. Nhưng cũng phải hết sức trân trọng các ý tưởng thiết kế của các người tham gia vì họ cũng đã bỏ công bỏ sức tâm huyết vào thiết kế của mình.
Ngày 21/8/2010, tại Trung tâm Mục Vụ Huế đã diễn ra Lễ Công bố & Phát thưởng giải cuộc Thi Thiết kế quy hoạch Dự Án Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang. Tuy nhiên, cuộc thi đã không tìm ra được thiết kế để xây dựng (không có giải nhất). Chúng ta hãy cùng xem lại các phương án thiết kế này.
7. THAY LỜI KẾT – THIẾT KẾ LA VANG THEO PHONG CÁCH LA VANG
Vì La Vang nằm ở Miền Trung (Huế) và nếu đọc, hiểu, cảm nhận được hết lịch sử, con người, văn hóa… của La Vang thì mới thiết kế được La Vang. Nhưng thiết kế phải là như thế nào? Không thể giống với Phát diệm, không thể giống với phương Tây…La Vang nên phải là La Vang.

Lễ khởi công xây dựng Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ La Vang
Vị trí địa lý
Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang tọa lạc tại tỉnh Quảng Trị, thuộc vùng bắc trung bộ Việt Nam. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình, nơi có những dòng sông trong lành xuất phát từ những con suối dọc dãy Trường Sơn, xuyên qua các hang động đá vôi kỳ vĩ, xuôi về đồng bằng nhỏ hẹp hòa mình vào biển đông. Phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, cố đô triều đình Nhà Nguyễn, nổi tiếng với các công trình kiến trúc lăng tẩm, thế đất sông núi hữu tình. Phía tây giáp nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào, ngăn cách bởi dãy núi hùng vĩ hiểm trở với rừng rậm mang tên Trường Sơn. Phía đông giáp biển Thái Bình.
Quảng Trị nằm trong chuỗi di sản văn hóa miền trung Việt Nam, Hội An – Đà Nẵng – Huế – Quảng Bình. Là hành lang của lục địa nhìn ra biển Đông.
Bảo tồn di tích
– Linh đài: nơi đây hơn 200 năm trước, năm 1798, Đức Mẹ đã hiện ra để cứu giúp người dân cùng khổ, lòng từ ái của Mẹ tồn tại đến muôn đời, trải qua bao thế hệ, Mẹ vẫn dang rộng cánh tay đón chờ mọi người chạy đến cùng Mẹ trong những cơn gian nan khốn khó.
– Giếng Đức Mẹ: từ lòng giếng này đã tuôn chảy ra nguồn nước tươi mát, bao nhiêu năm qua người ta đã đến kín múc nơi giếng như kín múc nơi lòng Mẹ những ân thiêng để thỏa lòng khát khao. Hình ảnh cái giếng nước gợi nhớ nếp sống cộng đồng của thôn làng Việt, mọi người cùng đến nơi đây để gặp gỡ, thông tin, chia sẻ, và nhất là cùng nhau đón nhận sức sống qua làn nước giếng làng.
– Ngôi tháp cổ: còn giữ lại như một chứng tích của lòng kiên cường, trải qua bao thăng trầm lịch sử, bao tàn phá của thời gian và chiến tranh, lòng tin vẫn bền vững, vẫn vươn lên cho dù còn mang những dấu vết đổ vỡ như chính Chúa Kitô đã phục sinh mà thương tích vẫn in dấu trên mình.

Quan điểm thiết kế
La Vang nằm trong vùng rừng núi hoang dã khi xưa, nay là vùng nông thôn miền đồi núi. Ý tưởng kiến trúc chủ đạo: công trình phù hợp với văn hóa Việt Nam, cụ thể miền trung Việt, hòa quyện trong thiên nhiên, gần gũi ấm áp thân thiện, tôn vinh những giá trị nhân ái và xây dựng một không gian cộng đồng. Đó là những đặc tính của hồn Việt.
Toàn bộ công trình kiến trúc Trung tâm Hành hương được thiết kế theo phong cách kiến trúc Việt Nam, thích ứng với khí hậu miền Trung, lấy vương cung Thánh Đường Đức Mẹ làm trọng tâm, phục vụ cho các cuộc hành hương kính viếng quanh năm và các Đại hội Thánh Mẫu mang tầm vóc toàn quốc hoặc quốc tế. Mặt bằng toàn thể tọa lạc trên khu đất diện tích 190.106 m2, phân chia thành 3 vùng chức năng mang tính tiệm tiến của cuộc hành hương:
1. Vùng tiếp khách hành hương: diện tích 47.500 m2, gồm cổng tiếp đón, một lối chính giữa đi vào rộng 32m, bên phải là ngôi nhà trưng bày các chứng tích phép lạ và các tặng vật của khách dâng cúng, bên trái là nhà hòa giải gồm nhà nguyện 200 chỗ và 30 tòa giải tội, cả hai công trình được đặt trên hai đảo giữa hai hồ nước thiên nhiên. Hình thái kiến trúc phỏng sinh học diễn tả năm chiếc bánh và hai con cá.
2. Vùng trung gian: gồm công trường Mân Côi rộng 48m, bên phải là nhà điều hành trung tâm với nhà nguyện 300 chỗ cho cộng đoàn địa phương (Giáo xứ La Vang), bên trái tái tạo khu rừng dẫn đến nơi Đức Mẹ hiện ra (Linh đài). Cổng tam quan mang biểu tượng hoa hồng dẫn vào 20 mầu nhiệm Mân Côi diễn tả bằng 20 công trình điêu khắc. Diện tích vùng 40.000 m2.
3. Vùng tâm linh: công trường Lòng Chúa Thương Xót và Vương cung thánh đường 5.000 chỗ đặt ở vị trí cuối Trung tâm, ngay trục chính toàn bộ công trình, bên dưới là một hội trường 5.000 chỗ và hầm đậu xe nội bộ. Ngay cổng vào không gian tâm linh bên trái là Linh đài kỷ niệm nơi Đức Mẹ hiện ra, kéo dài từ ngoài vào trong là một khu rừng cây tái tạo không gian xưa cũ núi rừng, ẩn hiện trong rừng cây là những chiếc lều dành cho khách hành hương qua đêm bên Linh đài Đức Mẹ. Đối diện Linh đài là tượng đài các Thánh Tử Vì Đạo tại Việt Nam. Tháp chuông của Vương cung thánh đường cũ được bảo tồn như một di tích, một nhà nguyện Thánh Thể 300 chỗ được đặt dưới lòng đất bên dưới khuôn viên Vương cung thánh đường cũ.
 Vương cung thánh đường
 
Công trình Vương cung thánh đường được xây dựng trên một mặt bằng có diện tích 13.464 m2. Chiều dài công trình 132m theo hướng bắc nam, ngang 102m theo hướng đông tây.
Thỏa sức chứa 5.000 chỗ (3.500 chỗ tầng trệt và 1.500 chỗ tầng lửng, sức chứa có thể tăng thêm do sử dụng hành lang chung quanh hoặc lễ đài mặt tiền) để phục vụ các cuộc hành hương đông đảo người dự, những hội nghị quốc tế, những cuộc tiếp đón các vị mục tử quan trọng đến thăm viếng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và những đại lễ của Giáo Hội.
Công trình Vương cung thánh đường là điểm nhấn của tổng công trình Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang, thể hiện phong cách kiến trúc Việt, mang hồn Việt qua hình dáng những tấm mái ngói thân quen, kiểu dáng ngôi nhà ở, ngôi đình Việt, những họa tiết diễn tả cụ thể những ân huệ của Thiên Chúa trên chính những sản phẩm của quê hương đất nước (hoa và lá cây lá vằng, lúa gạo, chùm nho, hoa hồng, chim lạc, ánh lửa…), những lối đi dành cho người già hoặc bệnh tật (tính nhân ái), cấu trúc đồng tâm (tính cộng đồng), những mảng xanh, giếng nước rửa tội trong nội thất, những vật liệu từ thiên nhiên của các vùng miền trong cả nước (tính thiên nhiên), tận dụng nước mưa trong mùa mưa để sử dụng trong mùa nóng, sử dụng năng lượng mặt trời (thân thiện môi trường)…
VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG
Gồm ba khối chính:
1/ Lễ đài (tiền sảnh):
Được xây dựng để tổ chức các lễ ngoài trời, hướng nhìn ra công trường Lòng Chúa Thương Xót có khả năng tiếp đón khoảng 500.000 khách hành hương, lễ đài trên 1.500 chỗ đồng tế, 50 chỗ đặc biệt tại chính điện. Phần trước lễ đài là một cầu thang lớn kết hợp các chiếu nghỉ làm nơi diễn nguyện trong các kỳ lễ hội.
Lễ đài được thiết kế mở như diễn tả Hội Thánh được sai đến với muôn dân, chủ đề Chúa Thánh Thần là chủ đề chủ đạo cho thiết kế.
2/ Vương cung thánh đường (khối chính):
Một giếng rửa tội đường kính 5 mét được đặt ngay tiền sảnh lối giữa từ lễ đài vào khối Vương cung thánh đường theo truyền thống Giáo Hội Công giáo. Nước được đưa vào nội thất để làm mát vi khí hậu (microclimate).
Nội thất Vương cung thánh đường phản ánh hồn Việt, vuông vức và đồng tâm để diễn tả tính cộng đồng.
Chủ đề của khối chính Vương cung thánh đường là biến cố chết-phục sinh của Chúa Kitô trong đó Mầu Nhiệm Ba Ngôi được mặc khải.
3/ Phòng Thánh (khối phụ trợ):
Khối phụ trợ giúp cho các sinh hoạt thờ phượng của khối chính và lễ đài được diễn tiến tốt đẹp, khối này cũng là nơi lưu giữ các vật dụng thánh dùng vào việc cử hành bí tích hoặc thờ phụng. Khối này gắn chặt với khối chính bằng cung thánh.
Chủ đề của khối này là “người Mẹ”, phong cách kín đáo, nhẹ nhàng, tinh tế và hiệu quả. Lưng quay ra hướng bắc chống đỡ giá rét mùa đông.
Phần dưới Vương cung thánh đường là một hội trường 5.000 chỗ, một bãi đậu xe nội bộ 1.000 m2 (50 xe 4 bánh du lịch), một hầm chứa và xử lý nước mưa (25.000 m3) để dùng vào mùa khô hạn.
Hội trường 5.000 chỗ sử dụng cho các cuộc hội họp gặp gỡ quy mô lớn, đồng thời có thể sử dụng để tăng sức chứa của Vương cung thánh đường trong các cuộc lễ mà số người tham dự trên 5.000, dùng hệ thống truyền hình nội bộ trực tiếp, rất cần thiết trong hoàn cảnh mưa bão.
Bãi đậu xe ngầm dưới công trường Lòng Chúa Thương Xót diện tích 1.000 m2, sức chứa 50 xe du lịch 4 bánh, loại 4-9 chỗ ngồi, dành cho các khách quan trọng. Có thang bộ và thang máy trực tiếp lên lễ đài, có lưu ý đến hệ thống thoát hiểm khi có biến động.
Toàn bộ giao thông từ Vương cung thánh đường có quan tâm đến thoát hiểm và đường thoát khẩn cấp cho các nhân vật quan trọng (VIP).
Hầm chứa và xử lý nước mưa (25.000 m3), vì là vùng khô hạn nên tận dụng nước mưa, xử lý để sử dụng là điều cần thiết, gìn giữ môi trường và tiết kiệm chi phí điều hành.
Huỳnh Đình Dũng – Sưu tầm và tổng hợp