Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

LỜI KINH SÁM HỐI


Mùa trông đợi 2013 
Mảnh đời con vùng đất khô cằn cỗi
Cúi xin Ngài, cho mưa xuống thành sông
Để khơi sâu nguồn nước chảy thành dòng
Cho tươi tốt, luống cày thêm màu mỡ.
Tấm gương trong, hơn một lần tan vỡ
Lấy quyền năng hàn gắn vết thương tâm,
Để nhìn rõ bao khiếm khuyết lỗi lầm
Cho trọn nghĩa dâng lời kinh sám hối.
Đời hiến dâng con vương bao tội lỗi
Xét suy lại mà cảm thấy xót xa…
Mấy mươi mùa trông đợi đón ơn Cha
Nỗi niềm đau tâm tư con day dứt!
Lời kết ước ngày xưa chưa hoàn tất
Kinh cầu nguyện còn ấp úng đầu môi,
Con mải mê bao thế sự giữa đời
Nên chểnh mảng việc thi hành đức ái.
Khi dấn thân nghe sao còn ái ngại
Mà tháng năm, hoàn vũ cứ dần trôi,
Thấy lương tâm chưa thoả đáng đền bồi
Chưa can đảm, khi đương đầu cuộc chiến.
Đường trọn lành, sao uể oải chậm tiến
Trước Tôn Nhan, ôi sợ hãi bàng hoàng
Như con người đã một kiếp đi hoang
Quá hổ ngươi, khi nhìn về dĩ vãng.
Để hôm nay giọt sầu đông lênh láng
Thiết tha nài xin mưa Đấng Cứu Tinh,
Cho hồn con tươi thắm mãi ân tình
Lời kinh nguyện, mỗi ngày thêm rõ nét.
Và giờ đây ôn lại lời cam kết
Nguyện với lòng trong từng mỗi phút giây,
Là sám hối, lụy vương lúc vơi đầy
Hầu nghinh đón mưa Mùa Ơn Cứu Độ…
Sr. Maria Gabriel

Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

Mừng 24 Năm Thụ Phong Linh Mục Của Cha Sở Phương Nghĩa

Mừng 24 Năm Thụ Phong Linh Mục Của Cha Sở Phương Nghĩa
Cha Luy Gonzaga Nguyễn Hùng Vị
Ngày 7.4.1990 - 7.4.2014
Cộng đoàn giáo dân Giáo Xứ Phương Nghĩa cùng hợp lời cầu nguyện cho Cha, nguyện xin Thánh Quan Thầy Luy Gonzaga bầu cử cùng Chúa cho Cha được hồn an xác mạnh, nhân đức vẹn toàn, để Cha đủ sức tiếp bước chặng đường theo Ngài dù bao khó nguy vất vả . Xin Mẹ Maria luôn đồng hành và nâng đỡ để Cha khỏi vấp ngã. Chúng con cùng dâng lời nguyện xin. Amen.

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

Tác giả: 
  Lm Trần Đình Long
LỜI XIN VÂNG
      
    Lm. Giuse Trần Đình Long
Dòng Thánh Thể

Với lời “Xin Vâng”, Đức Maria được làm Mẹ Thiên Chúa như lời Sứ Thần đáp lời Mẹ : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc1, 35). Bà Elizabet tự hỏi : “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,43). Còn Mẹ Maria thưa với sứ thần : “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1,34). Thực ra không ai trong loài người có thể lý luận tại sao ? Vì Kinh Thánh nói : “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1,37). Tất cả những việc Thiên Chúa làm chỉ vì yêu thương con người. Nhưng đúng hơn là mỗi người chúng ta phải nói lên được rằng : Việc Đức Maria đáp tiếng “Xin Vâng” để làm Mẹ Thiên Chúa là bởi vì Thiên Chúa yêu tôi. Vì yêu tôi mà Ngài đã phải hạ mình nhờ cậy một người phụ nữ hèn mọn, do chính tay Ngài tạo dựng nên, để làm Mẹ Ngài, để nhờ người nữ này mà Con Thiên Chúa có được một thân xác hữu hình ở giữa trần gian giống như tôi, để tôi được gặp gỡ Ngài, nhìn thấy Ngài chết thay tôi chỉ vì yêu mến tôi.


  Đức Maria, một tôi tớ hèn kém mà tin, tin tuyệt đối, không lý luận. Mẹ cậy nhờ tất cả vào Thiên Chúa, để mặc cho Thiên Chúa muốn dẫn đưa đến đâu, tùy ý của Ngài. Mẹ chỉ biết đáp lời “Xin Vâng”!

          Mọi chuyện xảy ra trong đời Mẹ, dù vui mừng, dù buồn đau, đau đến xé nát cả cõi lòng, đau đến như gươm thâu qua tim óc, Mẹ chỉ giơ tay đón nhận, giữ lấy suy niệm trong lòng, và nhắm mắt tin tưởng vào Thiên Chúa với lời “Xin Vâng”. Chính như thế mà Thần khí Thiên Chúa đã dễ dàng đưa Đức Maria từ Belem nghèo hèn tới chân thập giá cô đơn. Nơi đây Mẹ thấy Con của mình trong ngày Truyền Tin được gọi là “Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavid…và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32) vậy mà giờ đây coi như bị thất bại hoàn toàn! Con của Mẹ đang bị hành hình, tả tơi nhục nhã, bị lột trần bêu xấu trước đám quần chúng kiêu căng ngạo mạn.


 Trước thảm cảnh ấy, Đức Maria không kêu gào than khóc, chỉ đứng yên đối diện với đau khổ, tim vỡ ra từng mảnh mà nhìn vào thánh ý của Thiên Chúa trong giây phút bi thảm này. Mẹ vẫn chỉ một lời “Xin Vâng”. Kinh Thánh nêu một câu rất ngắn, để chứng tỏ Thiên Chúa yêu mến Đức Maria thế nào. Câu ấy là : “Phúc cho Bà là kẻ đã tin” (Lc 1,45).

          Lòng tin của Mẹ không rơi vào vô vọng. Lời hứa của Thiên Chúa đã thành sự. Từ trong tối tăm đau thương của thập giá, mầm sống bừng lên. Đức Giêsu đã phục sinh, và Thiên Chúa tôn vinh Giêsu Kitô là Chúa muôn loài.

          Đức Maria, kẻ đã bám vào lòng tin mà chết lên chết xuống nơi thập giá cũng được phục sinh và được tôn lên làm Mẹ Thiên Chúa.

          Còn tôi, kẻ đứng ngoài chầu rìa, vì lãnh đạm với ơn cứu độ, lại luôn sống thù nghịch với thập giá Đức Kitô mà cũng được nhờ ơn phục sinh của Đức Giêsu mà trở thành con Thiên Chúa, và được gọi Đức Maria, Mẹ của Ngài là Mẹ của tôi.


  Khi các bà mẹ trần gian với con mắt tự nhiên muốn xếp Đức Maria ngang hàng với mình, thì Đức Giêsu nhìn họ, và qua họ, Người nhìn tất cả các bà mẹ trên thế gian và nói : “Ai là Mẹ Ta?

          Sự thật duy nhất chỉ có một Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Tất cả các bà mẹ thế gian chỉ muốn cho con mình nên danh nên phận theo ý của mình. Còn Đức Maria thì đặt tất cả vận mệnh của con mình và  của cả bản thân mình trong ý của Thiên Chúa. Nên Đức Giêsu đã ca ngợi Đức Mẹ : “Mẹ và anh em Ta là kẻ nghe và làm theo ý Cha Ta”.


 Cả cuộc đời Đức Maria chỉ có một mong ước là bỏ ngỏ đời mình cho Thiên Chúa, là đáp tiếng “Xin Vâng”. Thế nên suốt đời Mẹ chẳng cố gắng tập tành đạo đức giống như các bậc hiền nhân quân tử thế gian, mà chỉ trông nhìn vào Thiên Chúa, để đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa ban cho. Nhờ đó Đức Maria được tràn đầy nhân đức, vượt trên tất cả loài người và trên tất cả các thần thánh trên trời.

Đức Maria đã sống như vậy, và đang là gương mẫu cho mọi xác phàm muốn sống như vậy. Đức Maria là mẫu mực và là người chúng ta phải nhờ cậy để gặp gỡ được Con Thiên Chúa. Vì tất cả những gì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, đó là : “Chức vị làm con, chức vị thừa hưởng phúc lộc của Cha, chức vị đồng trị với Đức Giêsu” (2Tim 2,12), dù có cố gắng lắm chúng ta cũng không nhận được trọn vẹn, chưa nói chúng ta còn có khả năng từ chối. Nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho một người có khả năng nhận được, đó là Đức Maria, để nhờ Mẹ dẫn dắt mà chúng ta đón nhận được Đức Giêsu.

          Đức Maria, một con người xác phàm từ đất mà ra như chúng ta, không phải từ trời mà đến như Đức Giêsu Kitô, đã sống trọn vẹn cuộc sống ân nghĩa trong vinh quang Thiên Chúa bằng lời “Xin Vâng”. Mẹ đã chứa đựng trong thân xác linh hồn mình cả một Đấng quyền năng tạo thành vũ trụ, cùng với một đại dương mênh mông của lòng mến, mà vẫn sống được cuộc sống bình thường như mọi người, trong nhân ái yêu thương như mọi người, và còn trổi xa hơn mọi người. Như vậy Đức Mẹ phải là con người duy nhất mà chúng ta có thể tín nhiệm và phải cậy trông. Muốn không bị lạc nẻo giữa đường trần gian này, chúng ta phải chạy đến nhờ Mẹ đưa đến gặp gỡ được Đức Giêsu con Mẹ, để sống kết hiệp với Ngài. Sống kết hiệp không phải trên mây trên gió, mà ngay trong mọi nỗi đau buồn, khấp khểnh, đói no, bất trắc của cuộc sống hôm nay, trong xã hội này, giữa thế giới đầy xao xuyến bất an chúng ta đang ở.

Bản thân Đức Maria chẳng có công nghiệp gì để đáng được như vậy. Và phần chúng ta không bao giờ có thể đặt một tạo vật như Đức Maria ngang hàng với Đức Giêsu Kitô. Tất cả chỉ là ơn, như chính Đức Maria đã nói trong kinh Magnificat. Mẹ chẳng có công gì nhưng tất cả đều là ơn huệ của Thiên Chúa : “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…” (Lc 1,48-49).


 Đức Maria được nên cao trọng như vậy, bởi vì Mẹ đã đặt cả đời mình vào trong ý của Cha trên trời và kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu Kitô.

          Hôm nay nhìn vào Đức Maria, Mẹ của tôi hiện đang ở trên thiên quốc cả hồn lẫn xác, và cũng đang ở bên tôi. Mỗi người tự đặt câu hỏi : Tôi phải yêu mến Đức Maria thế nào ?

          Thưa, tôi phải yêu mến Đức Maria như người con thảo đối với mẹ hiền. Đừng bao giờ sợ lòng yêu mến Đức Maria là quá mức hay quá đáng. Vì thật sự tất cả thần thánh trên trời cũng như những người tốt lành dưới đất có yêu mến Đức Maria đến đâu cũng không thể sánh bằng lòng yêu mến của Đức Giêsu Kitô đối với Mẹ của Ngài được.

          Hơn nữa, nếu tôi càng yêu mến Đức Mẹ, thì chắc chắn tôi lại càng gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Vì chính Đức Mẹ sẽ giúp tôi làm việc ấy, và cũng chính là lòng khao khát của Đức Mẹ như vậy. Đức Mẹ sẽ có con đường ngắn nhất và đúng nhất để dẫn dắt tôi vào trong tình yêu của Con Thiên Chúa.


 Suy niệm như thế, tôi phải cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho tôi một người Mẹ, đã thấm cuộc đời mình vào trong đau khổ thập giá Đức Kitô mà được nên tinh tuyền cao trọng và có một tấm lòng yêu thương tôi vô bờ bến.

          Chính Đức Giêsu đã ban cho tôi ân huệ này. Ngài nói với tôi : “Này là Mẹ con”. Và Đức Giêsu hằng mong ước mọi người luôn chạy đến nhờ cậy Mẹ của Ngài. Khi tôi chạy đến cùng Đức Maria thì Đức Mẹ ban cho tôi những ơn gì ?

          Riêng tự mình Đức Mẹ, thì Mẹ chẳng có ơn gì để cho tôi cả, nhưng khi tôi chạy đến cùng Mẹ, thì chắc chắn tôi sẽ được Đức Maria ban cho Đức Giêsu Kitô, Con của Mẹ.

          Do đó hàng ngày tôi siêng năng đọc kinh lần hạt sùng kính Đức Mẹ mà tôi thấy lòng tôi vẫn lạnh nhạt với Đức Giêsu Kitô, thì tôi phải xem lại cách kính mến Đức Mẹ của tôi. Vì nơi nào tôi thấy bóng dáng Đức Maria mà không thấy Đức Giêsu thì có thể tôi đã yêu mến một bà nào, mà tôi tưởng là Đức Mẹ, mà thực sự không phải là Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa. Vì hai trái tim của Đức Maria và Chúa Giêsu đã nên một với nhau trong Thần khí Chúa, không bao giờ tách rời phân cách.

          Lạy Đức Maria, xin cho con biết đáp tiếng “Xin vâng” như  Mẹ trong mọi biến cố cuộc đời, để ý Chúa được thể hiện trong con, để con không bắt người khác lúc nào cũng phải làm theo ý con, để con không lấy ý con làm trên hết, nhờ đó những người khác đỡ khổ vì con, và con được sống bình an trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ con. Amen

Lễ Truyền Tin 25-03

Mù và Sáng (Chúa nhật 4 mùa Chay, năm A) - TRẦM THIÊN THU

Tiền nhân xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm.



Tin Mừng Ga 9, 1-41

Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa" (chữ Silôe có nghĩa là được sai)". Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng và kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Ðúng hắn". Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây".
Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Ðó là một Tiên tri". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người.
 


Mù và Sáng
(Chúa nhật 4 mùa Chay, năm A)

Tiền nhân xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm.



Có hai con mắt, mờ một mắt, hư một mắt, hoặc thị lực yếu thì đã thấy khổ lắm rồi, huống chi bị mù hẳn. Hai con mắt “khác” một chút như bị đau cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” là khổ suốt – dù có thêm “hai con mắt” nữa.

Mắt cũng biết khóc, biết cười. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẻo, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nổi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn. Đặc biệt là phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân!



Mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, như người ta ví von: “Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Qua hai “cửa sổ” này, người ta có thể biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn quan trọng lắm đấy! Người yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía”. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu thôi!
Mù đồng nghĩa với tối tăm, trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nên Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Lúc đó, chúng ta hóa thành người “có mắt như mù”. Khủng khiếp quá!

Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Sa-mu-en: “Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua” (1 Sm 16:1). Chúa không nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc”.

Trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!”. Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác.

Chúng ta thường “trông mặt mà bắt hình dong”, cứ tưởng “con lợn béo” thì “lòng nó ngon”. Nhưng Thiên Chúa không như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam cũng xác nhận: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém”.

Sau đó, ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê:
“Đức Chúa không chọn những người này”. Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Gie-sê nói còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên. Ông Sa-mu-en liền bảo ông Gie-sê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!”. Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.



Phụng vụ Chúa Nhật Hồng (*) hôm nay sử dụng trọn Thánh Vịnh 23 (gồm 6 câu). Đây là Thánh Vịnh phổ biến nên rất quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng có ý đề cập niềm tín thác vào Ngài: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-4).

Thật vậy, khi có Chúa đồng hành thì “dầu qua lũng âm u” chúng ta cũng “chẳng sợ gì nguy khốn”, chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ” thì hoàn toàn “vững dạ an tâm”. Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:5-6). Có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững dạ, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không tăm tối.

Thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5:8-9). Tức là phải cẩn trọng xem “điều gì đẹp lòng Chúa”, chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5:10-11). Thánh Phaolô giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi.
Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14).



Bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nó mạnh mà lại yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng sẽ lui ngay. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.

Chuyện đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn nhiều lắm!

Một hôm, Thầy Trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9:3-5). Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Thiên Chúa được vinh danh.

Đáng lẽ chúng ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn không mấy quan tâm. Do đó, trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, gặp điều xui xẻo,…). Có người chỉ “để bụng”, nhưng có người lại dám “phán câu xanh rờn” rằng: “Chúa phạt!”. Lạy Chúa tôi! Nói theo phim bộ Hong Kong thì phải nói: “Thiện tai!”.

Không chỉ vậy, chúng ta còn có thiên kiến. Cũng một sự việc như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì chúng ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!”. Nhưng với người “hợp ý mình” thì chúng ta lại nói: “Thánh giá Chúa trao”. Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Chính định kiến đó là chúng ta “giết” người không cần gươm giáo!

Trả lời các đệ tử xong, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta:
“Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai phái”). Anh ta liền đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có biệt dược độc đáo ghê đi. Mà phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng ngữ nghĩa. Đó là “nước miếng trộn với bùn”. Hay dữ nghen! Mấy lang băm chớ mà học đòi theo, các pháp sư phải sợ mà chạy có cờ, còn các lương y và bác sĩ danh tiếng cũng phải tâm phục khẩu phục!



Dân chúng trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới xì xầm bàn tán, kẻ thì bảo là chính hắn, kẻ thì bảo không phải, kẻ lại bảo ai đó giống hắn thôi. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những người Pha-ri-sêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sa-bát. Ấy thế, người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9:15). Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì bảo Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát, kẻ thì bảo rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi vậy ha? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngày: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17).

Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi anh ta có phải là con không. Cha mẹ anh xác nhận anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh sáng mắt thì họ không biết tại sao, cha mẹ canh bảo họ cứ hỏi anh ta là chính xác nhất. Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.

Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi” (Ga 9:24). Anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Anh nói thẳng rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”.

Anh vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:30-33). Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34). Và rồi họ liền trục xuất anh. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi!



Đức Giêsu cũng biết họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Ngài hỏi anh có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây” (Ga 9:37). Thật bất ngờ, nhưng anh thấy rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 9:38). Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”.

Biết anh thật lòng, Chúa Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Những người Pha-ri-sêu đang ở đó và nghe vậy thì liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”. Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ mọn” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu lắc đầu, rồi thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41). Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn!

Còn chúng ta? Chắc hẳn đã có những lần chúng ta y như người Pha-ri-sêu vậy, chẳng hơn họ đâu. Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn”, không chịu “cân nhác” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta “có mắt như mù”. Thật đáng sợ!

Mù thì chắc chắn khổ, nhưng chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ, và cũng khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt không bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân” (Tv 91:8). Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (Tv 119:18).

Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết rằng chúng ta đã đi được nửa Hành Trình Mùa Chay. Chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, còn cận thị, viễn thị hoặc loạn thị nhiều hay ít? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không nhận biết tội mình, và loạn thị vì “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại bạn một phần”. Đã qua nửa Mùa Chay, chúng ta cùng tạ ơn Chúa và tiếp tục xin Ngài dìu dắt chúng ta đi hết chặng đường Mùa Chay theo đúng Thánh Ý Ngài.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở mắt đức tin cho chúng con, xin tăng thị lực đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con nhìn thấy chính Chúa trong mọi người – nhất là nơi những người nghèo khổ, nơi những người hèn mọn, và xin cho bất kỳ ai gặp chúng con cũng có thể nhận thấy nơi chúng con thực sự có Chúa sống động. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Chúa Nhật IV Mùa Chay mệnh danh là Chúa Nhật Hồng hoặc Chúa Nhật Vui (Laetare Sundae), do chữ đầu tiên của Ca Nhập Lễ là “Laetare” (Hãy vui lên, hỡi Giêrusalem). Chúa Nhật này dùng lễ phục hồng, được phép chưng hoa trên bàn thờ, và đệm đàn khi hát. Hoa Hồng Vàng được làm phép hôm nay, và còn được gọi là Mediana, Ngày Giữa Mùa Chay, Ngày Lễ Các Mẹ, Ngày Hoa Hồng, hoặc Chúa Nhật Tĩnh Dưỡng.

Có một Chúa Nhật Hồng khác, cũng gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete Sundae), đó là Chúa Nhật III Mùa Vọng, do câu mở đầu của Ca Nhập Lễ có câu “Gaudete in Domino semper” (Anh em hãy vui trong Chúa luôn mãi). Chúa Nhật này cũng dùng lễ phục hồng.

 

Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2014

CHUỖI MẦN CÔI NĂM SỰ SÁNG

CHUỖI MẦN CÔI NĂM SỰ SÁNG

Đọc vào ngày thứ NămKinh Chúa Thánh Thần
Chúng con lạy ơn Ðức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Ðức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Ðức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Ðức Chúa Trời trong lòng chúng con; Chúng con xin Ðức Chúa Trời cho Ðức Chúa Thánh Thần xuống.
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.Chúng con cầu cùng Ðức Chúa Trời, xưa đã cho Ðức Chúa Thánh Thần xuống, soi lòng dậy dỗ các Thánh Tông Ðồ, thì rày chúng con cũng xin Ðức Chúa Trời cho Ðức Chúa Thánh Thần lại xuống, an ủi dậy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Ðức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen
Kinh Lạy Cha:Lạy Cha chúng con ở trên Trời chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Kinh Kính Mừng:Kính mừng Maria đầy ơn phước, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ, hơn mọi người Nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Thánh Maria Ðức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử. Amen. (đọc 3 lần).
Kinh Tin Kính:Tôi tin kính Ðức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Tôi tin kính Ðức Chúa Giêsu Kitô là con một Ðức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi. Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai sinh bởi Bà Maria Ðồng Trinh; Chịu nạn đời quan Phong-Xi-ô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông; Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại lên Trời ngự bên hữu Ðức Chúa Cha phép tắc vô cùng; Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có hội thánh hằng có ở khắp thế này, các Thánh thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Kinh Sáng Danh:Sáng danh Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen
Kinh Lạy Chúa Giêsu Xin Tha Tội:Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con. Xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đưa các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là những linh hồn cần thêm lòng thương xót Chúa hơn.

Thứ nhất thì ngắm: 
Đức Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Gio-đan.
Ta hãy xin cho được sống đẹp lòng Đức Chúa Trời.

(đọc 10 Kinh Kính mừng, rồi đọc 1 Kinh Sáng danh, và sau đó đọc Kinh Lạy Chúa Giêsu xin tha tội)


Thứ hai thì ngắm: 
Đức Chúa Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu tại Cana.
Ta hãy xin cho được vững tin vào quyền năng của Đức Chúa Trời. 

(đọc 10 Kinh Kính mừng, rồi đọc 1 Kinh Sáng danh, và sau đó đọc Kinh Lạy Chúa Giêsu xin tha tội)

Thứ ba thì ngắm: 
Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và ơn thống hối.
Ta hãy xin cho được ơn cải sửa tâm hồn.
(đọc 10 Kinh Kính mừng, rồi đọc 1 Kinh Sáng danh, và sau đó đọc Kinh Lạy Chúa Giêsu xin tha tội)


Thứ bốn thì ngắm: 
Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor.
Ta hãy xin cho được lắng nghe Lời Người.

(đọc 10 Kinh Kính mừng, rồi đọc 1 Kinh Sáng danh, và sau đó đọc Kinh Lạy Chúa Giêsu xin tha tội)


Thứ năm thì ngắm: 
Đức Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể.
Ta hãy xin cho được siêng năng rước Mình Máu Thánh Người.

(đọc 10 Kinh Kính mừng, rồi đọc 1 Kinh Sáng danh, và sau đó đọc Kinh Lạy Chúa Giêsu xin tha tội)
Kinh Lạy Nữ Vương:
Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy, thân lạy Mẹ, chúng con, con cháu Evà, ở chốn khách đầy kêu đến cùng Bà. Chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương. Hỡi ơi! Bà là Chúa bầu chúng con, xin ghé mặt thương xem chúng con. Ðến sau khỏi đầy. Xin cho chúng con được thấy Ðức Chúa Giêsu, con lòng Bà gồm phúc lạ. Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay Thánh Maria trọn đời đồng trinh. Amen.
Kinh Hãy Nhớ:
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh, xin Đức Mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế xin chớ bỏ lời con kêu xin, một dủ lòng thương mà nhận lời con cùng. Amen.
Kinh Cám Ơn:
Con cám ơn Ðức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời mà lại sinh ra con, cho con được làm người, cùng hằng gìn giữ con, hằng che chở con, lại cho Ngôi Hai xuống thế làm Người chuộc tội chịu chết trên cây Thánh Giá vì con, lại cho con được đạo Thánh Ðức Chúa Trời, cùng chịu nhiều ơn nhiều phép Hội Thánh nữa, và đã cho phần xác con ngày(đêm) hôm nay được mọi sự lành; lại cứu lấy con kẻo phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp. Vậy các Thánh ở trên nước Thiên Ðàng cám ơn Ðức Chúa Trời thể nào, thì con cũng hợp cùng các Thánh mà dâng cho Chúa con cùng cám ơn như vậy. Amen.
----------------------------------------------------------------
[Thông điệp cá nhân (Sign Abba's)]
Lạy Chúa, Con Đây!
---sign---Giáo xứ Nam Am giaoxunamam.com+ facebook: facebook.com/gxnamam

Chuỗi Mân Côi Năm Sự Sáng

Năm Sự Sáng


Thứ nhất thì ngắm:              
Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan.
Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa.

Thứ hai thì ngắm:                
Đức Chúa Giêsu dự tiệc cưới Cana.
Ta hãy xin cho được vững tin vào quyền năng của Người.

Thứ ba thì ngắm:                 
Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối.
Ta hãy xin cho được hoán cải và đón nhận Tin Mừng.

Thứ bốn thì ngắm:               
Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi.
Ta hãy xin cho được lắng nghe và thực hành Lời Chúa.

Thứ năm thì ngắm:              
Đức Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể.
Ta hãy xin cho được năng kết hợp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể.






Chuỗi Mân Côi Năm Sự Mừng


NĂM SỰ MỪNG
Thứ nhất thì ngắm: Đức Chúa Giêsu sống lại. Ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn.
(Đọc 1 Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh).

Thứ hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.
(Đọc 1 Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh).

Thứ ba thì ngắm: Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ta hãy xin cho được lòng đầy dẫy mọi ơn Đức Chúa Thánh Thần.
(Đọc 1 Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh).

Thứ tư thì ngắm: Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời. Ta hãy xin cho được ơn chết lành trong tay Đức Mẹ.
(Đọc 1 Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh).

Thứ năm thì ngắm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Ta hãy xin Đức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên nước Thiên đàng.
(Đọc 1 Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh).

SỐNG MẦU NHIỆM MÂN CÔI : NĂM SỰ VUI

SỐNG MẦU NHIỆM MÂN CÔI : NĂM SỰ VUI




SỐNG MẦU NHIỆM MÂN CÔI : NĂM SỰ VUI
PHÊRÔ NGUYỄN NINH

 
NĂM SỰ VUI


Thứ nhất thì ngắm: 
 
Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai.
Ta hãy xin cho được ở khiêm nhường.
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể,
Từ nguyên thuỷ, nguyên tổ loài người đã bất trung xa lìa đường lối yêu thương của Chúa, nhưng với lòng tín trung vô biên, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu độ nhân loại.
Để thực hiện lời hứa ấy, hôm nay Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Ngài nhập thể trong cung lòng Trinh nữ Maria, làm người và ở cùng chúng con.
Xin cho chúng con luôn biết hãm dẹp mọi tính kiêu căng, tự phụ để sống khiêm nhường, tín trung, biết lắng nghe, đáp trả và thi hành thánh ý Chúa mọi ngày trong đời sống như Mẹ Maria. Amen.

Thứ hai thì ngắm:

Đức Bà đi viếng bà thánh Isave.
Ta hãy xin cho được lòng yêu người .
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể,
xưa kia Mẹ Maria đã nhanh nhẹn, nhiệt thành, tín thác xin vâng khi thiên sứ Gáprien truyền tin cho Mẹ chịu thai Chúa do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Mẹ đã cưu mang Con Một Thiên Chúa, 1 hồng ân tuyệt vời, mẹ đã không thủ đắc 1 mình mà chia sẻ niềm vui đó cùng chị họ Êlisabét cũng đã có thai 6 tháng nhờ quyền năng Thiên Chúa.
Gioan tẩy giả đã nhảy mừng và được khỏi tội nguyên tổ khi còn trong bụng Mẹ, khi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm.
Xin cho chúng con có tấm lòng quảng đại đồng cảm, yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người già yếu bệnh tật, những trẻ em mồ côi cơ nhỡ, lang thang, những mảnh đời bất hạnh bị đẩy ra bên lề xã hội, viếng thăm ủi an những người đang gặp cảnh thử thách gian truân thất vọng, khốn khó trong cuộc sống. Amen.

Thứ ba thì ngắm:

Đức Bà sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá.
Ta hãy xin cho được lòng khó khăn.
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể,
Chúa là Vua trên các vua, Chúa trên các Chúa, Chúa đã tạo thành vũ trụ vạn vật, thế mà Chúa nhập thể giáng sinh nơi hang lừa máng cỏ trong 1 đêm đông lạnh giá, nơi đồng hoang mông quạnh, làm con của 1 gia đình nghèo khó. Sao Chúa không sinh ra trong cung điện nhà vua, trong lầu son gác tía nơi đầy đủ tiện nghi vật chất ? Không ai biết Đấng Cứu Thế đã giáng sinh, Đấng mà họ luôn trông đợi ? Vì họ mải mê chìm ngập trong hoan lạc, đam mê vật nhục trần gian.
Xin cho những người phụ nữ trên khắp thế giới biết trân trọng phẩm giá và thiên chức làm mẹ là ân huệ Chúa ban để cộng tác với Ngài trong công trình sáng tạo sự sống mới và gìn giữ, chăm sóc, dạy dỗ con cái nên người hữu ích, hầu được “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Amen.

Thứ bốn thì ngắm:

Đức Bà dâng Đức Chúa Giêsu trong Đền thánh.
Ta hãy xin cho được vâng lời chịu luỵ.
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể,
Chúa là Chúa của lề luật, Chúa không bị bó buộc bởi lề luật và tuân giữ lề luật, nhưng để làm gương cho mọi tín hữu tôn trọng và tuân giữ lề luật, như Chúa đã nói, Ta đến không phải phá bỏ lề luật nhưng để kiện toàn lề luật.
Mẹ Maria và thánh Giuse đã đem Chúa vào Đền thánh Giêrusalem dâng hiến cho Thiên Chúa Cha và làm mọi thủ tục như luật Môsê dạy. Thiên tính của Chúa đã được tỏ hiện khi ông Simêon, người đạo đức và công chính đã sung sướng thốt lên: “Lạy Chúa, giờ đây xin cho tôi tớ Chúa ra đi bình an, như lời Chúa đã hứa, vì mắt tôi đã nhìn thấy Đấng Cứu độ”.
Xin cho chúng con qua sự chuyển cầu của Mẹ Maria, trong tinh thần khiêm hạ, kính yêu, luôn vâng phục cha mẹ, những vị mục tử trong Giáo hội, những thầy dạy, những người dẫn dắt chúng con trên hành trình đức tin, luôn vâng nghe lời Chúa, giữ giới răn Chúa, nhất là giới luật mến Chúa yêu người. Amen.

Thứ năm thì ngắm:

Đức Bà tìm được Đức Chúa Giêsu trong Đền thánh.
Ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn.
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể,
Sau dịp mừng lễ Vượt qua tại Giêrusalem năm Chúa lên 12 tuổi, Chúa ở lại trong Đền thờ cùng các luật sĩ Do thái, nghe và hỏi về giáo lý của Thiên Chúa, Chúa đã mặc khải dần dần thiên tính của Ngài khi trả lời Mẹ Maria, khi 2 ông bà tìm gặp lại Chúa trong Đền thờ : “Cha mẹ không biết Con phải ở Nhà Cha con sao ?”. Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa, vì thế, cũng tại nơi đây, khi đi rao giảng Tin mừng cứu độ, Chúa đã quở trách các thượng tế, kỳ mục và những người buôn bán trong Đền thờ, “Đừng biến Nhà Cha Ta thành nơi trộm cướp”. Nhưng nơi khác Chúa lại nói với người phụ nữ Samaria : “Đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật”. Thế là còn 1 đền thờ cao trọng hơn đền thờ xây bằng gạch đá vật chất, đó là đền thờ tâm hồn mọi người nơi Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.
Xin cho chúng con luôn canh tân đời sống, thánh hoá bản thân và thanh
luyện tâm hồn để xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.

PHÊRÔ NGUYỄN NINH